Wednesday, 31 August 2016

Kệ Ngôn 126 - Hiện Tại và Tương lai

Kinh Phap Cu - Pham 9
Kệ Ngôn 126 

Hiện tại và tương lai

Thap Nhi Nhan DuyenGiảng Sư: TT Giác Đẳng 

Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn







.
Chánh văn kệ ngôn pháp cú do Thượng Tọa Giác Đẳng dịch từ Pali
Gabbhameke uppajjanti, nirayaṃ pāpakammino;
Saggaṃ sugatino yanti, parinibbanti anāsavā.


DUYÊN SỰ

Trưởng lão Tissa đến nhà người thợ kim hoàn thọ trai. Trong lúc chủ nhà bận việc phía sau, một con ngỗng nuôi trong nhà nuốt vào bụng viên ngọc của nhà vua đã đưa để mài. Mặc dù là người rất tín tâm nhưng vì hốt hoảng đã làm mất viên ngọc của vua nên, người thợ kim hoàn đã vặn hỏi thậm chí tra tấn Trưởng lão Tissa đến nỗi bị thương đổ máu ngất xỉu bất chấp sự can gián hết lời của người vợ. Con ngỗng ngửi thấy máu tới gần cũng bị đập một cây chết ngay lập tức. Khi tỉnh dậy Trưỏng lão Tissa cho biết chính con ngỗng đã nuốt viên ngọc nhưng không thể nói vì sẽ làm con ngỗng bị giết. Người thợ hoàn vô cùng ăn năn xin được tha thứ. Không lâu sau đó Trưởng lão viên tịch Niết Bàn vì thương tích. Sau nầy khi các tỳ khưu bạch hỏi Phật về cảnh giới thọ sanh của con ngỗng, người thợ kim hoàn và người vợ, cũng như trưởng lão Tissa, Đức Phật đã dạy kệ ngôn. 

Minh Hạnh chuyển biên:


TT Giác Đẳng: Hôm nay chúng ta được nghe câu chuyện cổ tích chắc chắn quen thuộc bởi vì có trong nhiều bản dịch cũng như nhiều tác phẩm cổ tích Phật Giáo liên quan đến câu chuyện này.

Tỳ kheo Tissa đến nhà một người thợ bạc để thọ trai và con ngỗng trong nhà đã nuốt viên ngọc của nhà vua mang đến cho người thợ này mài dũa và kết quả đã tạo thành bi kịch. Câu chuyện này cho một cái nhìn khác về điều gọi là tội ác và hệ lụy ở trong kiếp người. Nhìn vào câu chuyện thì tất cả những người liên hệ kể cả người đã tạo lên những hành động hết sức dã man ở tại đây là người thợ kim hoàn. Nhìn ở góc cạnh nào đó chúng ta thấy người này cũng là một người đáng tội nghiệp. Cái tội nghiệp ở tại đây như trong sớ giải cho biết người thợ kim hoàn này suốt 12 năm trời ngày nào cũng thỉnh Tôn Giả Tissa đến nhà để cúng dường trai phạn, Tôn Giả đã đến nhà người kim hoàn này xem anh như một đàn tín một người đệ tử. Và chúng ta cũng được biết Tôn Giả Tissa đã nhận lời như một sự ban bố một cơ hội cho anh thợ kim hoàn và những người trong gia đình tạo phúc. Mười hai năm dài như vậy chắc chắn đã xây dựng được rất nhiều trên phương diện tín tâm đạo tình cũng như quan hệ mật thiết.

1. - Điểm thứ nhất.

Như bây giờ chúng ta thường nghe những câu chuyện đôi lúc vận không may nào đó xảy ra cho chúng ta, chúng ta lại có mặt ở một nơi không đúng thời, không đúng chỗ, không đúng người, và không đúng việc, ba bốn yếu tố không đúng đó nhập lại với nhau và tạo lên những bi kịch của đời sống. Câu chuyện chúng ta nghe Trưởng Lão Tissa gặp nạn vẫn thường xảy ra rất nhiều ở trong thời đại ngày hôm nay. Có câu chuyện xảy ra tại công viên Centre Park ở New York, một nhóm 5 em thanh niên nhỏ đi chơi tại công viên này và cả 5 người như vậy mà vào giờ đó không may hôm đó xảy ra một chuyện hãm hiếp ở Centre Park và qua lời khai cũng như qua thái độ thiếu khôn ngoan một lúc nào không tỉnh táo của 5 thanh niên này mà 5 người này đã bị rơi vào vòng lao lý một thời gian dài cho đến khi người ta tìm ra hung thủ và hung thủ cũng tự thú thì mới biết 5 người này cũng là nạn nhân trong một bi kịch của kiếp người của kiếp trầm luân.


Có thể nói rằng sự khôn ngoan của đời sống, đạo đức của đời sống và ngay cả vận may của chính mình đôi lúc không đủ khả năng để bạo vệ mình. Những cái dông rủi tai bay họa gửi và đồng thời bao nhiêu ách nạn vốn dĩ là một phần rất tự nhiên của kiếp người, một phần tự nhiên của cuộc sống trầm luân này.

Chúng ta nhìn vào câu chuyện một chút sẽ thấy tất cả những người liên hệ trong câu chuyện đều rất đáng tội nghiệp, cho dù đó là con ngỗng, con ngỗng nhìn thấy viên ngọc theo trong sớ giải lúc đó anh thợ kim hoàn đang nấu thức ăn và khi người lính của nhà vua mang viên ngọc đến anh đã cầm viên ngọc đó lên xem xét và một ít thức ăn dính vào viên ngọc, con ngỗng đánh hơi mùi thức ăn đã nuốt viên ngọc vào trong bụng. Con ngỗng nuốt viên ngọc vào trong bụng cũng là một hành động rất bản năng, con ngỗng không có ý đánh cắp viên ngọc đó và dĩ nhiên đối với con ngỗng viên ngọc đó không có giá trị hơn một miếng ăn nào, nó chỉ là một thứ miếng ăn không hơn không kém và có thể đó là một miếng ăn khó nuốt
.
Chúng ta lại nghe câu chuyện của bà vợ là người rất có tín tâm cùng với chồng đã bao nhiêu năm lo lắng cho Tôn Giả Tissa đối với Tôn Giả Tissa như một người thân, như một vị Thầy, như một chỗ nương tựa tinh thần, bây giờ nhìn thấy chồng mình đánh đập tra khảo Tôn Giả Tissa thì thật sự không có lời nói không có can trường nào đủ làm cho người vợ của người thợ kim hoàn cảm thấy có thể cầm lòng được.

Tội nghiệp nhất hai người đó là Trưởng Lão Tissa và anh thợ kim hoàn. Trưởng Lão Tissa có lý do hoàn toàn chính đáng để im lặng, Ngài là vị Tỳ Kheo là một vị Thánh, nếu lời nói đó có liên hệ đến mạng của một chúng sanh khác thì không thể là lời nói nhẹ được mà là lời nói phải cân nhắc rất nhiều. Đôi lúc trong những trường hợp người ta không thể nói thì chỉ biết chọn lấy im lặng và cái giá của sự im lặng đó không phải là một cái giá nhỏ, ở tại đây một sự im lặng lại tạo ra một bi kịch lớn, nhưng mà nói gì đây, mình biết chắc chắn rằng chỉ một lời nói của Ngài là con ngỗng đã nuốt viên ngọc vào bụng thì con ngỗng lập tức bị đem ra cắt cổ mổ bụng để lấy viên ngọc ra, Ngài là một bậc Thánh một vị Tỳ kheo Ngài không thể nói như vậy,

Nhưng mà rồi anh thợ kim hoàn lại là một người mặc dù đã tạo ra thảm kịch này nhưng anh cũng là một nạn nhân, anh là nạn nhân của kiếp luân hồi và nạn nhân của chính mình. Nạn nhân của kiếp luân hồi là đã sống thì phải mưu sinh, đã sống thì phải liệu toan, đã sống thì phải nhận lấy trách nhiệm, và đã sống thì phải trả cái giá cho sự mưu sinh của mình. Là một người được nhà vua thưởng thức tài nghệ mài dũa những viên ngọc của cung đình và anh là một người làm ra rất nhiều tiền nhờ đó anh có cuộc sống thoải mái nhưng bây giờ khi viên ngọc nhà vua đem đến không cánh mà bay và ở trong căn phòng đó ngoài Trưởng Lão Tissa không có người nào khác, cái mạng của mình treo như chỉ mành treo chuông. Và có thể nói rằng trong lúc túng quẩn anh không biết phải làm thứ gì. Đây là một điều chúng ta được biết có rất nhiều trường hợp Đức Phật Ngài khuyên các vị Tỳ kheo các đệ tử của Ngài nên tránh đi những nơi không thích hợp, những chỗ không thích đáng, những chỗ phi thời, tại vì những tai bay họa gửi đến đôi lúc mình không tránh né được.

Ngay cả trong một xã hội nền pháp luật được hổ trợ bằng nhiều kỹ thuật tinh vi thì hàng năm có rất nhiều người bị oan uổng một cách hết sức là oan uổng. Quí vị cũng nghe được tại Hoa Kỳ ở trong 10 người lên ghế điện có 4 người vào giờ chót người ta khám phá ra không phải như vậy, bởi vì một lúc nào đó vì sự sai lầm của công tố viên người ta chỉ lượng định được tội trạng dựa trên một thứ kỹ thuật và kỹ thuật vô tri đó đôi lúc lại không thể xác định hoàn toàn một cách chính xác, và có thể nói người ta có thể vương vào những tội đại hình rất dễ dàng chỉ vì một chút lầm lẫn của công tố viên. Chuyện đó chúng ta thường thấy nhan nhãn ở trên báo chí.

Trong câu chuyện này đúng là tình ngay lý gian và quả thật rất khó để người thợ kim hoàn có thể kiên nhẫn được, anh không thể kiên nhẫn được tại vì viên ngọc đó không nằm trong khả năng anh có thể bồi thường được, anh không thể kiên nhẫn được bởi vì anh có thể mất đầu, bị nhà vua đem chém đầu vì đã làm mất viên ngọc quí của nhà vua và anh không có một cách lựa chọn nào khác, ở trong lúc đó con người bị dồn đến một sự thử thách tuyệt đối hoặc giả có thể chấp nhận thân phận để bảo vệ đạo nghĩa của mình, hoặc giả trong lúc cuống quít mất bình tỉnh có thể làm bất cứ cái gì có thể làm được để truy tìm cho bằng được một vật đã mất. Anh thợ kim hoàn đã lựa chọn thái độ thứ hai đem một vị Thầy một vị Tỳ Kheo một người mình quen biết rất lâu để vặn hỏi, vặn hỏi không được thậm chí dùng đến bạo lực dùng đến tra tấn và Tôn Giả Tissa đã ngất sỉu trước những cú đánh rất hung hiểm của anh thợ kim hoàn.

Bi kịch chúng ta được nghe như vậy là một câu chuyện như Tôn Giả Tissa đã nói sau đó:

"Đó là nỗi của kiếp trầm luân".

Sống trong cuộc đời này chúng ta không những là nạn nhân của hoàn cảnh mà còn là nạn nhân của nghiệp quá khứ. Chúng ta là nạn nhân của những tâm bất thiện mình đã có ở trong một kiếp xa xưa nào đó.

- Bây giờ sống trong một kiếp người có ai dám nói mình có một quá khứ nhiều đời nhiều kiếp hoàn toàn tích tập những nghiệp thiện?

- Chắc chắn ở trong di sản mình thừa tự từ quá khứ nó bao gồm cả hai thứ thiện lẫn bất thiện, ác nghiệp lẫn thiện nghiệp.

Phải nói rằng trong nhiều đời nhiều kiếp, vô lượng kiếp luân hồi mà chúng ta đã trải qua từ trong nhiều đời quá khứ thì chắc chắn là ác nghiệp tạo nhiều hơn thiện nghiệp.

Có hiểu được ý nghĩa này, tại sao trầm luân sanh tử không phải một điều đáng cho chúng ta dính mắc đáng cho chúng ta bám víu. Đúng ra khi nói đến tội của trầm luân khi nói đến lỗi của kiếp luân hồi chúng ta nghe như là một câu nói triết lý như một câu nói đạo đức nhưng nếu nghiệm lại tất cả cái không may, tất cả những cái đưa đẩy sơ xảy có thể xảy ra, tất cả cái phiền lụy của kiếp luân hồi thì bậc thiện trí không có gì để hoan hỉ ở trong cuộc sống luân hồi này.

Chúng tôi có lần thăm thành phố lớn ở Ấn Độ thành phố Calcutta một thành phố nổi tiếng ở các quốc gia Tây phương tại đó có dì phước Têrêsa. Nhưng thành phố từ số người đông đảo chật chội cho đến muôn ngàn cái dơ bẩn, phiền phức của trời nắng của bão lụt từ vịnh Bengal thổi vào và xe cộ chạy mất trật tự v.v... khiến cho thành phố này không có lấy gì hoan hỉ đối với bản thân chúng tôi khi ở đó 3 ngày. Chúng tôi có đến thăm các ngôi chùa có đi thăm một số các di tích cũ nhưng Calcutta không bao giờ là một thành phố chúng tôi thật sự ưa thích đến ở đó. Phải nói rằng một buổi sáng trong 3,4 tiếng đồ hồ chỉ đi bộ ngang tòa Thị Chính, ngoại trừ khu thương mại chính Calcutta còn những nơi khác có trăm ngàn thứ phiền lụy. Những lúc đi lang thang trong thành phố này chúng tôi lại tự nghĩ đến một việc một thành phố đã được loài người xây dựng với chừng đó công trình xem ra còn ít có phiền lụy hơn là kiếp luân hồi, một sự dong rủi đưa đẩy chúng ta thật sự không biết cái gì sẽ xảy ra cho đời sống của mình.

Đôi lúc nghe một bi kịch xảy ra cho người khác chúng ta khen, chê hay đánh giá hay phê bình, chúng ta nói rằng người đó tài người đó giỏi. Cụ Nguyễn Du có nói "Chữ tài cùng với chữ tai một vần, chữ tâm kia mới bằng ba tài". Cụ có nói cách gì đi nữa thì sự so sánh đó không có đáng không đủ để nói hết tất cả. Những gì thuộc về khả năng của chúng ta hết sức là nhỏ bé so với cái phiền lụy, so với cái bất trắc, so với những điều chúng ta không biết được không có tiên liệu được của kiếp người. Có thể trong một vai trò nào đó ở trong một cương vị nào đó chúng ta thấy khả năng của mình có thể di sơn đảo hải có thể an bày rất nhiều thứ của cuộc sống, nhưng chúng ta hãy nhìn lại kiếp người những quyết định quan trọng nhất của cuộc đời những khúc quanh của chúng ta những thứ đó đã đến từ sự sắp đặt liệu toan từ tài năng trí tuệ của mình hay là chỉ là sự đưa đẩy. Một trong những danh nhân được biết nhiều ở xã hội Tây Phương, ông Albert Einstein đã nói : "Nếu chúng ta làm 10 chuyện mà thành công 1 chuyện thất bại 9 chuyện kể là một chuyện đáng hoan hỉ lắm rồi". Xác xuất về luân hồi, cái gì nằm trong khả năng, nằm trong tài trí của mình thì ít mà cái gì nằm ở trong cái bất định nằm ở trong sự đưa đẩy dong rủi thì nhiều.

HT ở chùa Ngài thường nói một câu chúng tôi rất thấm thía: "Cái gì mình có được không phải tại mình khéo giữ mà tại vì người khác chưa muốn lấy. Cái gì mình bị mất không phải vì mình bất tài mà tại vì người khác khéo lấy mà thôi."

Thật ra, chúng ta có nhiều cách nghĩ cho dù nghĩ cách nào đi nữa chúng ta hãy nghe Tôn Giả Tissa nói, Ngài nhìn lại toàn bộ những bi kịch xảy ra trên tấm thân của Ngài, xảy ra trên giòng nghiệp lực hết sức nghiệt ngã của anh thợ kim hoàn, và xảy ra đối với toàn diện câu chuyện này thì không có ai để trách dầu là anh thợ kim hoàn, dầu là Tôn Giả Tissa, dầu là con ngỗng dầu là một đấng thiêng liêng nào đó, bi kịch thì nó bi kịch và khi bi kịch diễn ra thì chỉ có một điều nói tại cuộc sống không hoàn hảo, cuộc sống không có như ý và Ngài đã nói "Đó là lỗi của kiếp trầm luân"

Đức Phật tuy vậy trong một nhân sinh quan trong một cái nhìn Ngài nhìn từ con mắt của vị Giác Ngộ Ngài nói kệ ngôn:

Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn

2. - Điểm thứ hai:

Trong đoạn đầu chúng ta nói đến sự bấp bênh vô định của đời sống, nói đến một cái gì hầu như chúng ta chỉ lấy mắt nhìn trong đôi tay nhỏ bé của mình không thể làm gì được. Nhưng ở đây Đức Phật Ngài có nói:

Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn

Khi Đức Phật nói điều này Ngài nói lên một vị trí rất đặc biệt đó là vị trí của từng trình độ tâm linh, vị trí của những sở hành sai biệt, vị trí của người có tu và không có tu, vị trí của sự lựa chọn mà từ ở trong sự khác biệt nhìn thoáng qua thì rất nhỏ bé này nhưng lại đưa đẩy chúng ta đến nhiều vùng trời hoàn toàn khác biệt.

Thành phố St. Louis xây một cổng hình cầu vồng rất lớn, những vị kỹ sư cho biết khi họ cất một cổng hình cầu vồng như vậy từ bên này họ bắt đầu xây và bên kia họ cũng bắt đầu xây ở dưới đất chỉ chênh lệch nhau vài milimét thôi thì hai đoạn bên trái và bên phải không bao giờ gặp nhau được. Cái chênh lệch một vài milimét đó tương tự như ở trong một giây phút nào đó tâm tư của con người, người thợ kim hoàn có lý do để lo lắng, có lý do để hốt hoảng, có lý do để mất bình tỉnh, và có lý do để trở thành một con người hết sức tàn nhẫn. Bên cạnh đó chúng ta nhìn thấy hình ảnh của người vợ của người thợ kim hoàn nếu chồng mình bị rơi đầu cũng có thể mình bị rơi đầu, nếu viên ngọc bị mất thì gia đình nhà tan cửa nát, không phải chỉ có người thợ kim hoàn mới nhà tan mà người vợ người thợ kim hoàn cũng nhà tan của nát. Nhưng ở đây trong cái nóng nảy trong cái cuồng nộ trong cái lo sợ anh thợ kim hoàn đã làm một quyết định đáng tiếc cho anh và đáng tiếc cho Ngài Tissa và nó đã tạo lên một bi kịch. Người vợ mặc dầu không thay đổi được tình thế nhưng người vợ đã chạy theo năn nỉ khóc lóc khuyên ngăn hết lời, cũng sợ hãi, cũng đối diện với điều đó nhưng người vợ đã có lựa chọn khác, có lẽ là bà đã lựa chọn trong trực giác của người phụ nữ, bà đã lựa chọn trong một thái độ nặng về lòng tin hơn là lo sợ những tai họa sắp đến, bà đã có một sự lựa chọn hoàn toàn dựa trên thiện tâm của mình, cái nhỏ nhoi đó đã tạo một sự khác biệt và đã đưa hai người về hai cảnh giới khác nhau.

Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn

Khi Đức Phật nói điều đó Ngài không nói bằng cái nhìn phán quyết, Ngài không phê bình kẻ này hay kẻ kia dở, Ngài chỉ nói là có một sự thật tương ứng giữa một tâm tư và cảnh giới đi tái sanh, Ngài chỉ nói đó là một điều tự nhiên của hành trạng của mỗi cá nhân, hành trạng của mỗi chúng sanh trong cuộc đời này, kiếp người là vậy và sự lựa chọn đó đã khiến cho đạo Phật hoàn toàn khác biệt với thuyết về định mệnh.

Người ta thường cho rằng Đạo Phật nhìn cuộc đời là khổ và người Phật tử thường nói đến nghiệp quá khứ là cái gì an bày cho tất cả. Nhưng trong câu kệ này chúng ta hãy đọc lại từng giòng và đem câu kệ này so với bi kịch đó chúng ta nhìn thấy Đức Phật cho chúng ta biết ở trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng phải nhìn thấy tâm thiện và tâm bất thiện khác biệt. Nếu gọi là đối diện với sợ hãi thì ai cũng đối diện với sợ hãi, nếu đối diện với hiểm nguy thì ai cũng đối diện với hiểm nguy, phải nói trong những trường hợp đó mới biết người có tu hay không có tu.

Người không tu khi gặp chuyện rủi ro để bảo vệ chính mình để có thể tìm ra một giải pháp, người đó có thể trở thành bất cứ một người nào khác và họ có thể quay lưng lại với tất cả. Trong trường hợp này anh thợ kim hoàn vì quá lo sợ chết, vì quá lo sợ hậu quả của việc mất viên ngọc đã quay lưng lại với một vị Thầy, với một người bạn khả kính, với một người mình đã trao gửi niềm tin trong suốt 12 năm trời.

Điều này không phải là một điều để trách. Nhưng nói sự lựa chọn lúc đó giống như chúng ta đang đi thi. Chúng ta phải đối diện với chính mình, thử xem đạo tâm, thiện tâm, sự hiểu biết, sự bình tỉnh, và một thái độ chấp nhận hậu quả có đủ làm cho chúng ta đứng vững trên đôi chân của mình hay chúng ta sẽ cuồng loạn lên. Và ở đó không có gì để phê phán là đúng, là sai, là hay, là dở, nhưng sự lựa chọn đó sẽ đưa chúng ta đi về một hướng mà hướng đó hoàn toàn khác biệt.


3. - Điểm thứ ba:

Bây giờ chúng ta đề cập đến câu chuyện này chúng ta lại nói đến một khía cạnh quan trọng khác của đạo Phật, khía cạnh đó là thái độ thưởng phạt không có chỗ đứng trong giáo lý của Đức Phật.

Có 2 tác phẩm đã ảnh hưởng lớn đến cái nhìn của người Phật tử VN và Phật tử Trung Hoa về phương diện nhân sinh quan đó là tác phẩm Hồi Dương Nhân Quả và Ngọc Lịch Minh Kính, hai tác phẩm này đã nói rất nhiều về sự việc một người chết đi người đó sanh vào địa ngục. Theo quan niệm của tác phẩm này thì tất cả mỗi người sau khi rời khỏi trần gian này đều phải đi vào cảnh giới địa ngục để nghe sự phán xét công tội của các vị phán quan của thập điện Diêm Vương. Phải nói rằng cho đến ngày hôm nay hầu hết các tôn giáo trừ Phật Giáo ra đều xem ngày phán xét cuối cùng, ngày phán xét tận thế, ngày mở Hội Long Hoa như chúng ta nghe nhiều trong bản sấm ký của miền Nam "khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm". Người ta nói đến ngày tận thế và ngày đó Thượng Đế sẽ luận công luận tội của mỗi cá nhân, sự luận công luận tội đôi khi không có chỗ đứng trong Đạo Phật.

Trong câu chuyện này chúng ta sẽ trách ai đây? Chúng ta có thể đem Ngài Tissa ra trách tại sao Ngài không lên tiếng, nếu Ngài lên tiếng thì con ngỗng chỉ bị giết thôi anh thợ kim hoàn sẽ không phạm ác nghiệp to lớn đó là xúc phạm đến Ngài. Chúng ta có thể trách anh thợ kim hoàn tại sao không bình tỉnh một chút đi tìm một ánh sáng nào khả dĩ mà lại quyết định vội vàng như vậy. Chúng ta có thể trách con ngỗng là đã tạo lên bi kịch đã tạo lên bao nhiêu hiểu lầm bao nhiêu cái phiền lụy cho chính thân của con ngỗng và cho Ngài Tissa kể cả cho người thợ kim hoàn.

Nhưng nếu xét đi xét lại tất cả đều do hoàn cảnh dung rủi và hoàn cảnh dung rủi đó được Ngài Tissa nói một cách cô đọng "Đó là lỗi của kiếp trầm luân". Ở trong kiếp trầm luân thì không có chuyện gì để phán xét công và tội, để lấy cây thước đo để nói rằng như thế này như thế khác.

Chúng tôi đã đọc rất nhiều bài viết về những bi kịch xảy ra tại quốc gia nghèo, lấy ví dụ là tại các vùng sơn cước những vùng rất nghèo miền thượng du đông bắc Thái Lan cha mẹ quá nghèo con thì đông không biết phải làm gì để cải thiện đời sống gia đình, họ bán những đứa con gái của mình vào những ổ mại dâm tại thành phố Bangkok. Người ta gặp những cô gái này, những cô gái này có thể có những hành động không lương hảo, người ta có thể khinh miệt những cô gái này, nhưng một số người nào đó đã cảm thấy những cô gái này chỉ là nạn nhân, họ trách gia đình tại sao cha mẹ lại nỡ vì đồng tiền mà đi bán con của mình, rồi người ta cũng trách chính quyền đã để việc đó xảy ra, rồi người ta cũng trách xã hội là xã hội đã dung túng đã để cho những người con gái vô tội đó phải hi sinh cả cuộc đời của mình để chỉ vì một ít đồng tiền, xã hội đã không làm một việc gì khả dĩ có thể thay đổi tình thế.

Nếu gọi là trách móc thì chúng ta có nhiều chuyện để trách móc nhưng khi nhìn vào toàn diện câu chuyện dù câu chuyện xảy ra bất cứ nơi nào chúng ta thấy đôi lúc chuyện phê phán là đúng, là sai, là hay, là dở, không phải là vấn đề, nó hoàn toàn không phải là vấn đề. Đức Phật trong một cái nhìn minh triết của bậc Giác Ngộ, trong cái nhìn của vị Toàn Giác Ngài đã không nói ai hay ai dở, Ngài chỉ nói có những cảnh giới tương xứng với hạnh nghiệp. Và lời nói như vậy đã quá đủ cho bất cứ chúng ta những ai lựa chọn thái độ của đời sống.

Chúng ta trôi dạt về đâu, đến nơi nào sống, trong hoàn cảnh nào đôi lúc không phải là vấn đề phê phán. Chúng ta phải hiểu do đâu chúng ta có mặt tại đó, và có mặt tại đó thì những quyết định của chúng ta lại đưa đẩy chúng ta đến một phương trời vô định khác. Điều quan trọng nhất, chúng ta hãy nhìn vào từng quyết định của mình hơn ngồi đó để thị phi, hơn ngồi đó để nói chuyện hơn thiệt. Những hơn thiệt những thị phi của đời sống đôi lúc hoàn toàn vô nghĩa kể cả một sự phán xét ở tại đây dù sự phán xét đó là phán xét của Thượng Đế hay sự phán xét của các vị phán quan ở trong địa ngục thì những sự phán xét đó cũng không nhằm gì hết. Phán xét điều gì khi chúng ta biết một cái gì xảy ra, như người Tây Phương từng nói hễ có một cái gì trục trặc thì toàn bộ máy trục trặc và toàn thể bộ máy trục trặc thì chỉ có việc cải thiện bộ máy chứ không có cách gì để người ta ngồi đó than thở vò đầu bức tóc chửi bới trỉ trích, nói như Ngài Tissa thì đó là "Lỗi của kiếp luân hồi".

Có nhiều ý nghĩa để học từ bài học này, một trong những ý nghĩa lớn là chúng ta có thể tìm thấy ngay cả một bậc đã giải thoát. Không lâu sau đó Tôn Giả Tissa Niết-bàn. Mặc dù người thợ kim hoàn rất hối hận khi tìm ra viên ngọc ở trong bụng con ngỗng đã khẩn khoảng thỉnh Ngài Tissa tiếp tục ở lại nhà để thọ trai, Ngài Tissa đã nhã nhặn từ tốn từ chối không phải vì Ngài giận, không có một chút bất mãn hờn giận nào trong lòng của một vị đã đoạn tận lậu hoặc, Ngài chỉ thấy một chuyện đó là đến những nơi không thích hợp có thể có những phiền lụy không cần thiết. Và Ngài đã lựa chọn một con đường ra đi thong dong như ngàn xưa Đức Phật đã dạy, ngàn xưa Chư Phật đã làm đó là mỗi buổi sáng đi chầm chậm từng nhà khất thực nếu có gì người ta cúng dường vào trong bình bát thì cảm ơn bằng sự im lặng tiếp tục ra đi, cả người cúng dường lẫn người thọ thí không có ai rảng buột ai, không có ai bị vương hệ lụy với ai và điều đó không làm cho ai phải buồn lòng. Thái độ lựa chọn của Ngài là một thái độ lựa chọn rất tự nhiên không phải vì buồn không phải vì phiền. Ít lâu sau đó Ngài đã viên tịch vì vết thương chí mạng vì bệnh hậu không thể tránh khỏi sau một cuộc tra tấn cực kỳ dã man.

Rất đau xót rất tội nghiệp cho câu chuyện này nhưng chúng tôi tin rằng nếu chúng ta xét kỹ thì tìm thấy ở trong đó cả 4 chúng sinh có liên hệ đó là Ngài Tissa, người thợ kim hoàn, người vợ của người thợ kim hoàn và con ngỗng cả 4 người đều chỉ là một sự dong rủi của kiếp trầm luân và ở trong đó nếu có điều gì được nói lên và nói một cách thích đáng một cách đẹp nhất thì câu nói đó phải là câu nói từ bậc Giác Ngộ.

Một số đi đầu thai
Kẻ ác sinh địa ngục
Người thiện sinh cõi phúc
Bậc vô lậu niết bàn


4. - Kết Luận

Trước một bi kịch như vậy điều duy nhất chúng ta được nghe Đức Phật dạy tại đây chúng sinh đến đi trong cuộc đời này là sự đi đến những cảnh giới thích hợp với những hạnh nghiệp mình đã tạo và những hạnh nghiệp đó là một thể hiện của một tâm và tâm đó có khéo tu hay không khéo tu, tâm đó có đủ khả năng để giúp cho mình đối diện với những nghịch cảnh, tâm tư đó có đủ khả năng để giúp cho mình không bị nao lòng, không bị nản trí, không bị thay đổi bản chất tốt đẹp của mình hay không thì đó là một điều mình phải tự trả lời cho mình không ai có thể trả lời cho mình được điều này.

Phải có rất nhiều thì giờ để chiêm nghiệm mới hiểu được nhân sinh quan của Đạo Phật. Đạo Phật dạy cho con người sống gần với tự nhiên và ở trong một mức độ tự nhiên nào đó của nghiệp lực của duyên nghiệp thì ở đó không còn là một sự vui buồn, không còn là sự phán quyết của thương của ghét, của vui của buồn nữa. Ở đó chúng ta chỉ nhìn thấy một điều ai sống hợp với lẽ đạo, ai sống hợp với tự nhiên người đó được sự an lạc. Nếu bất cứ ai nghĩ nghiệp báo bằng quan niệm riêng tư của mình, bằng cái nhìn vui buồn của mình người đó chưa thể nào nhận được lý nghiệp báo.

Giống như trong khu vườn của mình chúng ta không thể giận cỏ dại được, chúng ta không thể giận những cây tại sao mình chăm sóc nhiều nó không chịu lớn, cỏ dại mình không chăm sóc thì lại lớn mạnh. Hễ ở đâu có điều kiện tốt cho cỏ dại thì cỏ dại tăng trưởng, ở đâu có điều kiện tốt cho cây thì cây tăng trưởng. Thay vì giận những cây hoang cỏ dại, thay vì trách móc những cây mình trồng thì mình lên làm đúng, nếu mình đúng mình có thể đạt được những gì mình muốn.

Ngày nay người ta càng chú trọng đến khoa học tự nhiên người ta càng khám phá ra nhiều lãnh vực quan trọng. Ngày xưa có những người họ đã muốn cất cánh bay xa những người khác mỉa mai nói nếu Thượng Đế quả thật muốn con người bay được đã tạo cho con người cặp cánh. Câu nói đó hoàn toàn dựa trên triết lý dựa trên niềm tin và dựa trên cảm xúc của mình. Nhưng mà rồi, con người đã biết khai thác nền khoa học tự nhiên, nếu nền khoa học này tạo thành một điểm y cứ và trên đó người ta đã thành tựu được nhiều bước tiến quan trọng trong ngành khoa học kỹ thuật và đã thay đổi toàn bộ khuôn mặt của loài người trong trái đất này thì chúng ta thấy khoa học tự nhiên đó chỉ giới thiệu cho chúng ta một phần liên quan đến vật chất.

Nhưng điều Đạo Phật gọi là tự nhiên thì tự nhiên này bao gồm cả tâm lý, vật lý, cả danh pháp, sắc pháp, cả cái mình thấy được và cái mình không thấy được. Và cái tự nhiên đó có thể ở một phương diện nào đó giống như chữ "Đạo" trong triết lý của Lão Trang, chữ "Đạo" trong triết lý, trong những tác phẩm của kinh Vệ Đà. Chúng ta cũng nghe nói đến cái tự nhiên nó là bất cứ một phương diện gì liên quan đến cái không dự phần của vui của buồn, của cái không dự phần vào tâm muốn thống trị, tâm muốn chi phối, tâm muốn làm chủ của con người.

Nhưng mà, mỉa mai thay cho chúng ta khi chúng ta muốn làm một điều gì đó thì ý muốn là một yếu tố, và tánh chất tự nhiên của hoàn cảnh, tự nhiên của cuộc sống nó lại là một yếu tố khác.

Chỉ cho đến khi nào ý muốn đó thuận hợp với lẽ tự nhiên thì cái đó mới dẫn chúng ta đến được mục tiêu chúng ta mong muốn.

Ở đây, Đức Phật Ngài đã dạy một câu kệ mới nghe dường như chỉ là một câu trả lời về cảnh giới thọ sanh. Nhưng trong câu trả lời đó cho chúng ta thấy chúng sanh đến đi trong cuộc đời này theo hạnh nghiệp của mình và hạnh nghiệp đó dựa trên một chủ tâm tạo tác và chủ tâm tạo tác là cái quyết định hoàn toàn. Chúng ta có quyền lựa chọn mặc dù trong một hoàn cảnh hầu như không có quyền lựa chọn anh thợ kim hoàn và người vợ của anh hai người đều đối diện với một hoàn cảnh, hoàn cảnh của lo sợ hoặc hoàn cảnh của bối rối nhưng hai người đã có 2 sự lựa chọn hoàn toàn khác nhau. Vì vậy đã đưa họ về 2 phương trời hoàn toàn khác biệt./.

Monday, 11 July 2016

Kệ ngôn 117 - Tích Ác, Thì Tất Khổ - TT Giác Đẳng giảng

Psychotheraphy, Meditation

Kệ Ngôn 117 

Tích ác, thì tất khổ

Thap Nhi Nhan DuyenGiảng Sư: TT Giác Đẳng 

Ðã phạm phải điều ác,
Chớ tiếp tục phạm hoài,
Ðừng ham làm việc ác,
Tích ác, khổ dằng dai






.
Chánh văn kệ ngôn pháp cú do Thượng Tọa Giác Đẳng dịch từ Pali
Paapa.m ce puriso kayiraa
 na ta.m kayiraa punappuna.m
Na tamhi chanda.m kayiraatha
 dukkho paapassa uccayo.

Minh Hạnh chuyển biên:

TT Giác Đẳng: Hôm nay chúng ta sẽ thảo luận kệ ngôn 117, phẩm ác hạnh. Có lẽ khi đi qua phẩm này chúng ta dễ dàng nhận thấy chữ ác hạnh ở đây Đức Phật Ngài đã đề cập đến với rất nhiều ý nghĩa. Có thể một hành động đối với người khác không mang lại tai hại cho bất cứ ai nhưng riêng tự thân thì làm tổn hại bản thân của mình, đánh mất lợi ích của mình, Đức Phật Ngài cũng gọi những bất thiện pháp đó là ác.

Phải nói rằng ác nghiệp là một phần hết sức dễ nhận ra trong đời sống của chúng ta, chúng ta không thể nói anh A xấu anh B tốt, vì vậy giữa anh A và anh B hai vấn đề nên thảo luận riêng biệt với nhau. Khi đi qua những câu Phật ngôn ở đây chúng ta dễ dàng nhận thấy đối với Đức Phật thì mỗi chúng ta đều có khả năng rất lớn trong việc trở thành một người tốt và đồng thời chúng ta có một khả năng rất lớn trong việc trở thành một người xấu. Là một người phàm dĩ nhiên một chúng sanh sống trong cuộc đời này chúng ta không thể quên rằng những phiền não trong nội tâm chúng ta rất có thể dễ dàng bộc phát đến độ nó có thể đánh mất đi tất cả những lợi lạc, Đức Phật Ngài dùng chữ "tự đào bới lấy gốc của mình".

Trong bài kệ 117, trước nhất chúng ta thấy có 3 điểm rất nổi bậc:

1. Điểm đầu tiên, Đức Phật Ngài đề cập đến những phiền não như một phần chúng ta phải để ý ở trong đời sống tu tập của mình và đặc biệt hết sức để ý.
2. Điểm thứ hai, bài kệ này mang tánh cách một lời kêu gọi, một lời nhắc bảo.
3. Điểm thứ ba, nhắc tới tại đây chúng ta sẽ có dịp nhìn sơ qua về một số bản chất phiền não của tội lỗi ở trong mỗi chúng ta.

Có thể nói hình ảnh thầy Tỳ Kheo Seyyasaka cũng là hình ảnh của đa số chúng ta sống trong cuộc đời này, mình cố gắng làm chuyện gì đó rất tốt và mình cố gắng giữ một cái gì đó rất hoàn hảo, một khi nó đã không tốt, một khi nó không hoàn hảo nữa thì chúng ta buông tay bỏ cuộc và chúng ta không còn thiết đến chuyện làm sao để giữ cho nó tốt đẹp nữa, chính vì vậy chúng ta buông suôi, chẳng những buông suôi mà chúng ta đánh mất đi sự phấn đấu của mình, chúng ta đánh mất đi căn bản ban đầu mình đã có chủ tâm theo đuổi bởi vì mình thấy công việc không có thành tựu.

Chúng tôi nhớ hồi còn nhỏ khi ở nhà với thân sinh của chúng tôi, Người dạy chúng tôi chuốt những cây chỉ, thợ mộc thường có cây chỉ nhỏ giống như những cây nẹp để đóng kiếng, mỗi lần chuốt hai góc vuông phẳng và hai góc kia phải tròn, khi chuốt một cây chỉ phải làm sao cho đều tròn. Bởi vì hồi còn nhỏ chúng tôi luôn luôn với tinh thần hiếu thắng là muốn chuốt như thế nào để cho một cây nẹp chỉ hoàn hảo nhưng khi đã lỡ tay làm sướt gỗ hay lỡ tay bào quá sâu hay chuốt không đều tự nhiên không còn muốn đụng tới cây chỉ đó nữa mà chỉ muốn làm nó hỏng thêm thôi. Có lẽ đặc tính đời sống con người hễ một bước sa chân chúng ta lại tiếp tục và tiếp tục sa chân nữa cuối cùng chúng ta buông mình theo hướng đi trôi dạt.

Việc này không chỉ xảy ra đối với bản thân của chúng ta mà vốn xảy ra trong mọi lãnh vực đời sống mình từ nghề nghiệp cho đến học thuật cho đến tôn giáo cho đến quan niệm về cách ăn ở hàng ngày.

Một lần Đức Phật Ngài dùng hình ảnh trong kinh Ngài dạy các thầy Tỳ Kheo vào chùa tu tập nên giữ tâm niệm giống như nàng dâu mới về nhà chồng nghĩa là lúc nào cũng cẩn thận lúc nào cũng cân nhắc nhưng đừng để tâm tư của mình giống như nàng dâu ở trong nhà chồng quá lâu rồi lờn, khi mình không còn là một người mới nữa và đã quen dần rồi đâm ra lờn. Tâm tư của chúng ta cũng vậy rất dễ dàng để chúng ta buông ra. Có nhiều người trong cuộc đời này ở một cương vị nào đó người ta có thể gìn giữ lấy, ví dụ như người ta đề cập đến một số phụ nữ khi lớn lên lúc nào cũng chau chuốt nhưng khi có gia đình rồi lâu ngày không còn tha thiết đến đời sống không còn phải tự chưng diện chính mình nữa lúc đó chỉ còn thái độ buông tay. Hoặc giả chúng ta xem những câu chuyện kể những người sống trong giang hồ mới vừa dấn thân vào giang hồ còn gìn giữ được đạo nghĩa nhưng khi đã lỡ phạm lầm lỗi rồi thì thường lầm lỗi này dẫn chúng ta đến lầm lỗi khác.

Trong bài kinh Khởi Thế Nhân Bổn, Đức Phật Ngài đưa ra một hiện tượng về xã hội, hiện tượng này cho chúng ta thấy một việc rất rõ là một khi xã hội đã có khuynh hướng bị chi phối bởi phiền não, bởi những ác quấy, những ác hạnh rồi thì những ác hạnh này lại kéo theo những ác hạnh khác và dần dà ở trong xã hội đầy dẫy loạn lạc nhân tâm ly tán.

Đức Phật dạy: "Ở đâu có đao trượng thì ở đó có sát sinh. Sát sinh sanh khởi thì trộm cắp sanh khởi thì nhiều thứ khác cũng sanh khởi". Nó là thế cờ domino nghĩa là cái này sụp đổ thì cái kia cũng sụp đổ. Hiện tượng xã hội, hiện tượng tâm lý và bất cứ việc gì phạm tội chúng ta được biết trong xã hội này chung qui có thể hết 50% cơ sở nằm lên trên điều chúng ta đang nói ở đây. Bởi vì tâm trạng Tỳ Kheo Seyyasaka là một vị khi vào tu thì mong mỏi đời sống của mình hoàn hảo một đời sống hoàn thiện, và khi mình đã làm điều lầm lỗi rồi thì cảm nhận thất vọng với chính mình, bất mãn với chính mình, và trong sự thất vọng bất mãn đó thì nghĩ rằng mình có làm gì đi nữa mình cũng không hoàn hảo được, mình có làm gì đi nữa  mình cũng vậy thôi và mình tiếp tục lầm lỗi.

Đây là tâm trạng đã dẫn con người đi từ sai lầm này sang sai lầm khác, đi từ đọa lạc này sang đọa lạc khác. Lời dạy của Đức Phật như một lời kêu gọi và lời kêu gọi này không phải là một lời kêu gọi đơn thuần mà là một sự cảnh tỉnh lay động rất lớn.

Ở đây trong bài kệ, chữ punappuna.m là một sự lập đi lập lại, chúng ta thường gọi là ngựa quen đường cũ.

Lập đi lập lại là một khi chúng ta làm một điều sai lầm thì điều lầm đó không phải chỉ để hậu quả trực tiếp như chúng ta nói sát sanh thì bị chết yểu hoặc giả trộm cắp thì bị mất của, những quả báo đó thấy lớn nhưng thật sự nó không lớn so với những thói quen mà nó tạo nên.

Tại vì đơn giản là mỗi chúng ta đều có một ngã tính riêng của mình và khi mình làm việc gì sai lầm thì thông thường chúng ta phải tìm một cái gì đó để biện hộ và ít nhất cho mình cảm thấy yên lòng không mặc cảm về điều này và sự vuốt ve xoa dịu đó lâu ngày cho chúng ta một thứ dễ chịu giả tạo, do sự giả tạo này lập đi lập lại một trạng thái có khuynh hướng dễ dàng để chúng ta lập đi lập lại.

Chúng ta tự hỏi tại sao một việc xấu con người dễ lập đi lập lại hơn một việc thiện?

Sự lập đi lập lại của việc xấu ở đây Đức Phật dùng chữ punappuna.m là cảm giác để cố gắng xoa dịu bản ngã của mình.

Quí vị cứ tưởng tượng như một ngày nào đó chúng ta bỗng dưng quên mình nói một câu lỡ lời làm ai đó buồn lòng và khi trở về chúng ta thường có thói quen nói đi nói lại điều đó trong lòng mình. Nói đi nói lại để làm gì? Để tự tìm xem có một phần nào, một chỗ nào mình có thể nghĩ có lý do chánh đáng để mình nói vậy hay không. Thái độ tự biện hộ và thái độ tự vuốt ve bản ngã, tự cứu vớt mặc cảm của mình là nguyên nhân khiến cho rất nhiều tội ác lập đi lập lại. Và một điều còn tệ hại hơn nữa về phương diện tâm lý là nhiều lúc trong sự cố gắng biện minh cho chính mình thì mình tìm thấy được một ý nghĩa mới và ý nghĩa mới làm chúng ta ưa thích cảm thấy việc làm đó có lý. Đối với Đức Phật Ngài rất đơn giản, Ngài khuyên đừng ưa thích những chuyện đó như vậy nữa vì chứa ác thì tất khổ.

Chứa ác tích khổ ở đây là một câu nói tuy rất gọn nhưng Đức Phật Ngài nói một cách rất cô đọng, rất xúc tích:

- Dukkho paapassa uccayo - Tích ác, thì tất khổ

Những ai chất chứa những bất thiện tâm thì điều đó mang lại đau khổ, cho dù có lý một ngàn phần, cho dù chúng ta có thể biện minh cách nào đi nữa nhưng chứa ác thì tích khổ.

Chúng ta lấy một ví dụ, ở trong người chúng ta có những độc tố, chúng ta có thể đem những độc tố đó vào trong người và bởi vì nhiều lý do nhưng hễ chứa những độc tố thì những độc tố đó có cơ hội phát tán được.

Cái nhìn của bậc thiện trí thì chuyện đó rất dứt khoát: biết rõ cái gì hại và cái gì lợi. Còn chúng ta thì đi vòng quanh nó, chúng ta cố gắng tìm một lý do chánh đáng để giải thích, và cho dù lời nói chính đáng của chúng ta có giải thích đến đâu đi nữa thì bất thiện pháp cũng là bất thiện pháp thôi. Tâm tư của bậc Thánh tuy giản dị mà thâm sâu, tâm tư phàm phu của chúng ta tuy phức tạp mà nó nông cạn. Cái nhìn của bậc Thánh là cái nhìn rất thẳng rất thực, các Ngài nhìn vấn đề trực diện với vấn đề và khi các Ngài đối diện đề cập đến vấn đề thì không quanh co như chúng ta. Bởi vì các Ngài không có bản ngã để tự biện hộ, còn đối với chúng ta thì thường là chúng ta đi từ lầm lỗi này sang lầm lỗi khác.

Một lúc nào đó chúng ta thử xem một cuốn phim nói về những lầm lỗi của con người, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy những nhân vật ở trong phim vì một chút tham gia tài đã có những mưu đồ, và thường thường nó đi từ lầm lỗi này sang lầm lỗi khác thậm chí có thể giết cha giết mẹ của mình, thậm chí có thể dấn thân vào việc phi pháp và cuối cùng khi phải đối diện với sự thật thì thấy những quyết định của mình là những quyết định sai lầm hàng loạt. Và chúng ta không bao giờ thấy được như vậy.

- Tại sao bậc thiện trí sống trong lòng thanh thản ? Tại vì bậc thiện trí làm thiện.

- Tại sao người ác họ sống không được thanh thản ? Tại vì người ác họ phải tìm lời nói để biện hộ cho hành động chính mình và họ phải có lý do để chứng minh những việc làm đó có lý. Và bởi vì để chứng minh việc làm đó có lý do đó họ cố gắng để lập đi lập lại một việc làm mà đáng lẽ họ phải chấm dứt từ ban đầu.

Người Việt Nam chúng ta có nhiều câu nói về việc này. Như "bàn tay đã nhúng chàm" hay "lỡ bước xa chân". Những thành ngữ đó nói cho chúng ta thấy một sự việc hễ chúng ta đã bắt đầu lầm lỡ bước vào những ác nghiệp thì rất khó để có thể quay đầu trở lại bởi vì bản ngã, bởi vì sự phê phán của xã hội, bởi vì tự bảo vệ lấy chính mình trước những đòn phép thù hận của bên này bên kia và do vậy chúng ta tiếp tục và tiếp tục.

Nên chi Đức Phật Ngài dùng chữ punappuna.m ở đây. Và chúng ta hỏi tại sao Đức Phật lại dùng chữ chanda.m (Na tamhi chanda.m kayiraatha) chữ chanda.m ở đây nghĩa là ưa thích là ham muốn.

Đã làm lỗi thì có gì mà ưa thích, nhưng khuynh hướng ưa thích ở đây là một khuynh hướng để xoa dịu tự ngã của mình và khi tự ngã được xoa dịu chúng ta cũng tìm thấy một vị ngọt, cái ngọt ngào đó có thể là vị ngọt của ly rượu độc nhưng người ta vẫn thích vị ngọt ngào đó. Bởi vì vậy nên ở trong thế gian này đôi lúc ở trong một cơn hận thù, trong lúc một cơn cuồng nộ người ta cũng tìm thấy một cái gì rất hả hê, một cái gì rất thỏa mãn. Nhưng cái hả hê thỏa mãn đó nó chỉ nói lên sự lầm lẫn này tiếp nối qua lầm lẫn khác mà thôi.

Có thể nói một khuynh hướng giúp cho chúng ta đạt được nhiều lợi ích ở trong việc thực hành, đạo Phật gọi là Sacca pāramī-chân thật balamật.

Chân thật balamat ở đây nói lên một thái độ rất thành thật để nhận cái gì trắng là trắng, cái gì đen là đen, cái gì vui là vui, cái gì khổ là khổ. Có thể chúng ta không hoàn hảo nhưng chúng ta cứ nhận mình không hoàn hảo thì việc đó sẽ đỡ cho chúng ta rất nhiều. Vì vậy chúng ta cần đến chánh pháp, cần đến một sự soi sáng.

Thật ra, chúng ta cũng cần phải nhắc chính mình một điều là con người của chúng ta rất dễ dàng để xử dụng bất cứ thứ gì có thể xử dụng được ở trong khẩu tài, ở trong ngôn ngữ, ở trong quan niệm cuộc sống. Để làm gì? Để che dấu ác nghiệp của chính mình, một bản chất mà thật ra trong kinh nói có một vị Tu Đà Hườn một vị Thánh Sơ Quả các Ngài không còn có những hành vi khuất lấp nữa, còn đa số chúng ta khi còn thân kiến chúng ta vẫn còn có thái độ như vậy, vì vậy mới sanh ra những chuyện như giải thích Phật Pháp một cách tùy tiện, hễ cái nào mình thích thì mình cho cái đó là nhất, còn cái nào mình không thích thì mình né tránh đi, nhưng chúng ta quên rằng thái độ thành thật giúp cho chúng ta một phần và một phần nữa chính sự khách quan của Phật Pháp giúp cho chúng ta lay tỉnh cơn mê của mình. Cứ tưởng tượng một lúc nào đó chúng ta không còn tự chủ nữa, một lúc nào đó chúng ta dấn thân vào một cuộc phiêu lưu thì không biết trong cuộc phiêu lưu đó ai là người sẽ nhắc nhở cho chúng ta ngoài sự thành thật với chính mình, ngoài chánh pháp soi sáng cho mình.

Có nhiều người nói rằng Đức Phật là một người rất pragmatic, là một người theo chủ nghĩa thực dụng, chúng tôi không biết chữ đó dùng có chính xác hay không bởi vì nó là một điều cần bàn đến cho rõ ràng, con người mà nói chuyện bằng nhãn hiệu rất dễ sai lầm rất dễ dẫn đến lý luận điên rồ. Nhưng chúng ta biết một điều rằng Đức Phật Ngài khuyên chúng ta nên tỉnh táo nhìn vấn đề một cách rất trực tiếp, trực tiếp đến nỗi chúng ta không nhất thiết phải dùng nhiều danh từ hoa mỹ, dùng nhiều hý luận của ngôn từ để nói quá nhiều về một điểm. Trong lúc đó thì rất cần thiết chỉ đơn giản một việc nhỏ là chúng ta mở mắt ra thì thấy rõ rằng "chứa ác tất khổ". Nếu chúng ta phạm một lầm lỗi gì đó và từ đó mình cố gắng để có một giải pháp mình phải tự hỏi rằng sau giải pháp đó mình có lớn mạnh trong thiện pháp, sau giải pháp đó mình có cảm thấy mình được trưởng dưỡng trong điều kiện khác hay không? Hay chúng ta cứ tiếp tục lao theo nó, giống như một người phóng lao thì phải theo lao, hay một người cưỡi lưng cọp, đa số chúng ta hễ lầm rồi dẫn đến lở, chúng ta tiếp tục sa chân chứ chúng ta ít có dịp để quay đầu trở lại.

Nên chi câu kệ ngôn này như một lời nói rất thân thiết, Đức Phật Ngài nhắc chúng ta như trong rất nhiều bài kinh, những bài kinh chúng ta đọc như bài kinh Khởi Thế Nhân Bổn chẳng hạn, những bài kinh đó tuy được giảng vào thời kỳ con người chưa dạy môn phạm tội học ở trong trường học của loài người nhưng bài kinh đó nói cho chúng ta rất rõ về tình tự của xã hội, ở trong một xã hội khi con người đã tạo ra một số lầm lẫn này hay một số phiền lụy kia thì nó dẫn ra hàng loạt hết cái này tới cái khác, và chỉ có bậc thiện trí mới đứng ra ngoài điều đó mới tỉnh táo thấy rằng đã đi quá xa là lúc nên dừng lại, phải dừng lại ở điểm nào đó ít nhất cho phép chúng ta trở mình, cho phép chúng ta tìm về một con đường sáng sủa hơn.

Bài kệ 117 qua duyên sự và qua ý nghĩa bài kệ một lần nữa Đức Phật nhắc đến một góc cạnh bóng tối của mỗi người chúng ta trong cuộc sống, bóng tối là có một cái gì đó giữ lại cho dù chúng ta muốn hay không muốn, cho dù vì hoàn cảnh bên ngoài hay bởi vì bất cứ lý do sâu thẳm nào đó, chúng ta hãy làm một việc là chấm dứt một cách đơn giản như câu nói Đức Phật dạy "chứa ác tất khổ". Phải có một kết luận thẳng thừng như vậy, trong kết luận thẳng thừng mới đủ giúp chúng ta vượt lên trên cái gì chúng ta đang bị vướng vấp vào.

Hầu như ở trong cuộc sống chúng ta dành 1/5 thì giờ để có những quyết định quan trọng và 4/5 thì giờ để biện hộ cho những quyết định của mình. Khi chúng ta đã làm thiện chúng ta không cần phải biện hộ như vậy, một người làm thiện để có được niềm vui thấm nhuần ở trong thân tâm của mình, một người có trí thì không cần phải nhiều lời. Đức Phật Ngài dạy: "Hễ nước sâu thì nó chảy rất nhẹ nhàng mà hễ nước cạn thì ồn ào, thùng rỗng thì kêu to". Con người chúng ta sống trong cuộc đời này chính những cái gì mà người ta dương cờ gióng trống người ta ầm ĩ hô hào bằng bao nhiêu nhãn hiệu danh từ hoa mỹ những thứ đó chúng ta phải coi chừng tại vì nếu nó đã thật sự tốt thì người ta không cần phải như vậy.

Chính bản thân của chúng ta cũng vậy. Do vậy đừng nói trong bản năng của mình trong trực giác của mình cái gì mình tốt mình biết nó tốt, cái gì mình xấu mình biết nó xấu và khi đã biết nó tốt đã biết nó xấu thì chúng ta có thái độ thích hợp. Đừng ngây thơ mà tin tưởng như vậy. Bởi vì ở trong xã hội loài người thông thường những cái tệ nhất những cái xấu nhứt thì những cái đó người ta ầm ĩ cổ võ nhiều nhất.

Tại sao người ta cổ võ ầm ĩ nhiều nhất? Bởi vì người ta vẫn chưa bao giờ cảm thấy tự an ổn lấy chính mình, làm sao có thể an ổn được khi một cái chủ nghĩa khi mà một quan niệm, khi mà thái độ sống mà lầm lẫn thì nó không bao giờ an ổn được do đó người ta phải dùng bao nhiêu danh từ bao nhiêu thứ để tô hồng chuốt lục tô điểm cho nó. Không may cho chúng ta chuyện đó không phải là chuyện của người mà chính là chuyện của mỗi chúng ta.

Vì vậy chúng ta phải có một thái độ như ở tại đây Đức Phật Ngài dạy một thái độ rất đơn giản như "tích ác tất khổ". Trong thái độ đó cho phép chúng ta nhìn mọi vấn đề một cách rõ nét một cách thẳng thắng và trong cái thẳng thắng đó mọi thứ đối với chúng ta hiện ra trước mắt không có lầm lẫn không làm cho chúng ta bị bối rối.

Thật ra sự lầm lỗi nó không phải là một điều quá tệ để dìm chúng ta xuống bùn nhưng chính vì một sự cố gắng để biện hộ cho những lầm lỗi đó nó là cái gì đẩy chúng ta đi xa đến đỗi bản thân của mình và những người chung quanh mình không ai có thể cứu vớt lấy chính mình.

Nên chi, đức tánh thành thật chúng ta nói đến chân thật balamat, chúng ta muốn nói đến một thái độ phát lộ thành thật ở trong đời sống này để làm cho chúng ta sớm chấm dứt được những phiền lụy do chính mình tạo nên.

Trong bài kinh này Đức Phật Ngài dạy nhân thầy tỳ kheo Seyyasaka đã phạm lỗi và trong sự phạm lỗi này lại sanh tâm phiền não bất mãn, cái bất mãn này là một điều rất dễ hiểu tâm trạng của vị đó như tâm trạng của chúng ta, chúng ta muốn bộ đồ của mình là bộ đồ trắng trẻo hoàn toàn không có một vết bẩn nào nhưng mà rồi khi chúng ta đã đi vào một con đường lầy lội và lỡ có một vài vết bẩn vấy lên áo chúng ta rồi thì chúng ta buông tay phó mặc. Và đa phần những gì chúng ta đi quá xa là những lầm lỗi to lớn chúng ta vướng vào ngay ban đầu nếu chúng ta sớm biết nếu chúng ta sớm chấm dứt thì không đến đỗi như vậy, phần lớn bởi vì chúng ta không tìm thấy được ánh sáng mà chúng ta chỉ chạy theo khuynh hướng vuốt ve tự ái làm sao để cứu vãng mặc cảm của mình mà thôi.

Bởi vậy chúng ta cần đến chánh pháp, bởi vậy chúng ta cần đến bậc đạo sư, đến một tiếng nói thứ ba, phải có tiếng nói khác hơn là tự thân của mình, hơn là những người nào chỉ có vuốt ve tâng bốc mình, mà có những lúc nào đó chánh pháp phải là ngọn đèn để soi sáng cho những gì ở trong đời sống của mình cho dù mình thích hay không thích. Không có thời đại nào tệ hại như thời đại ngày hôm nay khi con người chạy theo chủ nghĩa tiêu thụ. Nền tảng của chủ nghĩa tiêu thụ là gì đó thỏa mãn được thị hiếu của con người.

Đạo giáo cũng vậy và triết học tư tưởng cũng vậy, những sản phẩm nào được giới thiệu vào xã hội loài người những sản phầm đó thường làm sao để đẹp lòng người. Không may cho chúng ta những cái gì mà có chủ tâm để mê hoặc chúng ta, để làm đẹp chúng ta thường đó là không lợi cho mình. Chúng ta đã quên đi rất nhiều rằng có đôi khi bậc thiện trí phải đứng lên trong cái bước đi chập chững của chính mình và té xuống rất đau chứ không phải là không đau. Có đôi lúc chúng ta phải nhìn thẳng vào tấm gương để nhìn thấy khuôn mặc của mình, chúng ta nhìn vào bàn tay để nhìn thấy những vết sần sùi của chính mình, những điều đó nó không đẹp những điều đó nó làm cho chúng ta thấy cuộc sống không có hoàn hảo, chúng ta có mặc cảm là nó không xứng đáng nhưng mà rồi điều đó lại tốt cho chúng ta; "Thuốc hay thì dã tật". Vì vậy người ta đã nói rất nhiều về sự thỏa hiệp của thiện và ác trong cuộc đời này nhưng người ta quên đi mục đích của chánh pháp không phải là một sự thỏa hiệp để mong cầu được một chỗ đứng trong xã hội.

Đức Phật Ngài không xá gì với cái danh và cái lợi của cuộc đời, và Ngài cũng không màn đến việc có bao nhiêu người theo Ngài, cái con số đông của quần chúng không phải là điều Đức Phật tha thiết, điều đó chúng ta phải nói thẳng và nói thực như vậy. Đối với Đức Phật một người vinh danh Ngài, hay một trăm người vinh danh Ngài, hay một ngàn người vinh danh Ngài không có cần thiết. Điều cần thiết Ngài muốn cho chúng ta biết đó là chúng ta có thật sự được trưởng thành trong thiện pháp, chúng ta có thật sự tỉnh táo ở trong cuộc sống mê mờ này, chúng ta có thật sự tìm được phương lương dược chữa trị căn bệnh của chúng ta hay không chứ không phải là những điệu ru, và những điệu ru đó làm cho chúng ta cảm thấy hài lòng mãn ý. Chính vì vậy tư cách khách quan của chánh pháp cần được tôn trọng, vị trí khách quan của chánh pháp cần được có để nhắc nhở chúng ta trong trường hợp như vậy.

Ở đây, chúng ta đọc lại kỹ câu số 3, Đức Phật Ngài dùng chữ không đơn giản "Na tamhi chanda.m kayiraatha" Ngài dùng chữ "chanda.m" tức là ưa thích điều ác.

Nghe một người nào nói với chúng ta ưa thích điều bất thiện ưa thích ác nghiệp chúng ta giẫy nảy lên và phản đối ầm ĩ rằng đã nói bất thiện đã nói là ác có cái gì để ưa thích. Nhưng phải nói chúng ta sẽ ưa thích nó nếu những điều bất thiện đó đánh bóng được bản ngã của mình, nếu những điều bất thiện đó nó vuốt ve mơn trớn cho chúng ta được cảm giác dễ chịu thấy rằng mình cũng không đến nỗi tệ lắm, việc đó nó cũng tốt, và nó thế này thế khác. Có trăm ngàn muôn cách, có trăm ngàn ngôn ngữ biện minh nó làm cho chúng ta ưa thích một việc mà chúng ta hoàn toàn không nên ưa thích.

Về điểm này, chúng tôi phải nói một lần nữa câu chuyện này cũng như bao nhiêu câu chuyện khác trong kinh Pháp Cú Đức Phật Ngài giảng chúng ta không nên nghĩ Đức Phật Ngài đang nói cho nhân vật ở trong câu chuyện hay Ngài nói cho một ai đó không phải là Phật tử, mà những lời này Đức Phật Ngài dạy sự soi sáng của Ngài cho tất cả mọi chúng ta. Chúng ta có thể có ít hoặc có nhiều, chúng ta có thể không có tâm chán nản bất mãn như vị tỳ kheo ở trong duyên sự đề cập nhưng chúng ta cũng có thể có những cái nhìn tương tự ở trong những hoàn cảnh tương tự, những lời dạy này của Đức Phật là những lời dạy cho chúng ta một cái nhìn mới một cái nhìn khác và phải coi chừng lấy chính mình.

Chúng tôi xin dứt bài kệ này ở đây. Thật ra ý nghĩa bài kệ này rất quan trọng, ý nghĩa này đây là mạch văn kêu gọi nhưng về phương diện Phạn ngữ từ ngữ thì không có nhiều từ ngữ đặc biệt tuy nhiên có nhiều chữ rất thú vị như chữ "punappuna.m" nghĩa là lập đi lập lại, chúng ta nhớ đến thí dụ Ngài Ajahn chaa thường gọi là "giống như con kiến bò chung quanh miệng chén". Tại sao con người thích nhai đi nhai lại giống nhu bò nhai cỏ? Tại vì có thể một cái gì đó không làm chúng ta thỏa mãn nên nó mới làm chúng ta phải nhai đi nhai lại giống như con bò nhai cỏ, punappuna.m, hay là con kiến bò chung quanh miệng chén./.



Saturday, 28 May 2016

Kệ ngôn 113 - Pháp Nhãn Tối Thượng - TT Giác Đẳng

Psychotheraphy, Meditation
Kệ Ngôn 113 
Pháp Nhãn Tối Thượng


Thap Nhi Nhan DuyenGiảng Sư: TT Giác Đẳng 

Sống trọn kiếp trăm năm
Không thấy pháp sanh diệt
Chẳng bằng chỉ một ngày
Lẽ vô thường thấu triệt






.
Chánh văn kệ ngôn pháp cú do Thượng Tọa Giác Đẳng dịch từ Pali
Yo ce vassasata.m jiive
apassa.m udayavyaya.m
Ekaaha.m jiivita.m seyyo
passato udayavyaya.m


Minh Hạnh chuyển biên:

Kệ ngôn 113 kinh Pháp Cú một câu kệ rất quen thuộc trong cách trình bày của phẩm Muôn Ngàn mà chúng ta được nghe Đức Phật làm một sự so sánh. Và đồng thời bên cạnh đó chúng ta lại nghe một câu chuyện rất quen thuộc khác đã trở thành một trong những tiền đề hết sức tiêu biểu cho truyền thống tu tập của Đạo Phật. Câu chuyện nói lên một người nhờ vào chánh pháp vượt qua nỗi trầm luân khổ ải của bản thân mình, câu chuyện nói đến một con người bị dìm xuống vì sự đau khổ vật vã và đã dùng đau khổ làm điểm tựa để đứng dậy bước tới và thành tựu tuệ giác nhờ thấu triển được sự đau khổ.

Có lẽ không có một cái gì khiến cho người ta dễ suy nghĩ về đạo Phật bằng hình ảnh Đạo Phật cứu khổ. Cứu khổ ở đây trong nhiều phương diện nhưng phương diện quan trọng nhất là đề cập đến đời sống tâm lý một người có thể tìm thấy ánh sáng của tuệ giác, có thể tìm thấy một cái nhìn mới xuyên qua sự bình tỉnh để phản tỉnh về nỗi đau khổ riêng của mình.

Trong câu chuyện này một lần nữa chúng ta nghe về một con người rất đáng thương. Thật ra, bởi vì xảy ra dồn dập nhiều thứ thì trở nên rất đáng thương, nhưng thân phận của người này cũng có thể là thân phận của nhiều người trong chúng ta chỉ khác nhau là một lúc trong một thời gian rất ngắn thiếu phụ Patàcàrà đã phải nhận chịu rất nhiều tang thương của đời sống.

Patàcàrà xuất thân từ một tiểu thư đài các con nhà giàu đem lòng thương yêu một thanh niên làm công trong nhà. Bất chấp sự phản đối của cha mẹ nàng quyết định sẽ sống trọn cuộc đời với chàng thanh niên này và dĩ nhiên cha mẹ cực lực phản đối họ đã dắt dìu nhau ra đi. Ra đi bởi vì thuần một động lực là chạy theo tiếng gọi của trái tim, cuối cùng họ cũng tìm thấy một nơi để xây dựng tổ ấm cho hai người.

Nhưng rồi năm dài tháng rộng đặc biệt lúc nàng mang thai, chúng ta được nghe rất nhiều những phong tục của Ấn Độ thời xưa và của một vài quốc gia ở vùng Trung Ấn có phong tục hễ mỗi khi người con gái có thai thì về quê mẹ để sanh nở. Patàcàrà cũng chạnh lòng một phần vì nhớ gia đình một phần vì nghĩ đến thân phận của mình cho dù rất thương chồng nhưng trong thời kỳ mang thai vẫn mong muốn được trở về bên mái ấm của gia đình.

Nàng không thuyết phục được chồng nên tự mình đã bỏ đi và đi giữa đường lại chuyển bụng và hạ sanh đứa con đầu lòng, ngay giờ phút đó người chồng rượt theo tìm tới được đem cả hai mẹ con trở về nhà. Không lâu sau đó nàng lại có thai đứa con thứ nhì và lần này cũng như lần trước, mặc dù rất thương chồng, mặc dù hiểu đường xa nguy hiểm cho một thai phụ như nàng nhưng nàng vẫn tha thiết mong mỏi được trở về để có thể khai hoa nở nhụy trong căn nhà của chính mình hồi còn thơ ấu và được sự chăm sóc của mẹ mình.

Nàng lên đường nhưng lần này không phải chỉ lên đường với bào thai trong bụng mà nàng lên đường dắt theo đứa con đầu lòng, đứa con còn rất nhỏ đi với nàng. Câu chuyện cho chúng ta biết cuộc hành trình đó là cuộc hành trình đầy nước mắt, nàng cũng đi và băng qua một đoạn đường rất vắng vẻ của núi rừng rồi chồng của nàng khi đi ra bên ngoài để kiếm củi về không thấy vợ của mình thì cũng chạy theo và cuối cùng bắt kịp nàng. Cũng vào giờ phút đó nghiệp duyên dun rủi một phần đường xa vất vả và một phần nữa đã tới thời kỳ sanh nở nên nàng sanh đứa con thứ hai ở bên vệ đường tại ven rừng. Người chồng bấy giờ vốn có một chút kinh nghiệm thấy thời tiết rất xấu mưa và rất lạnh nên tìm một nơi khô ráo tương đối cho vợ và hai đứa con của mình nghỉ ngơi tạm, người chồng lại vào trong rừng tìm củi với ý định trở về để sưởi ấm cho ba mẹ con.

Kể từ giây phút đó trở đi nàng phải đón nhận rất nhiều tai họa. Ngồi trú mưa ở một nơi khô ráo rất lâu vẫn không thấy chồng trở lại trời đã chiều rồi nàng mới dắt đứa con đi tìm, đi chỉ một đỗi rất ngắn thấy chồng nằm ở đó bây giờ chỉ là cái xác không hồn và nàng biết được với nét mặt và với vết thương biết là trong lúc đi tìm củi bị một con độc xà cắn chết. Vừa mới sanh con bây giờ lại một mình với hai đứa con thơ ở giữa rừng với xác chồng như vậy nàng chỉ làm được một việc duy nhất với đôi bàn tay yếu đuối của mình tìm một ít thứ có thể đắp lên trên thi thể của chồng, sau đó cắm một cái gì đó để làm dấu tích.

Sau khi đã làm những gì có thể làm được với đôi bàn tay yếu ớt của mình ở nơi rừng sâu núi thẳm như vậy nàng lại dắt dìu hai đứa con đi tìm về quê ngoại. Lúc bấy giờ theo câu chuyện kể thì thời tiết rất xấu mưa nhiều một cơn bão vừa mới đi qua nên khi đi ngang qua một giòng suối nước chảy hết sức mạnh nàng không cách gì để một thân mình mà ẵm hai đứa con đi qua được nên nàng để đứa con đầu ở bên bờ này và một mình ẵm đứa con vừa mới sinh băng qua ngang giòng suối để đứa con vừa mới sinh nằm bên bờ bên kia và trở lại với ý định sẽ mang đứa con còn lại qua bên bờ, lúc nàng đi được giữa giòng thì một con chim nhìn thấy một hai nhi đỏ hỏn nằm ven bờ giòng suối như một cục thịt thì con chim đó nhào xuống và cắp đứa bé đi.

Trong lúc đó nàng không biết làm gì, thân phụ nữ đứng giữa giòng suốt như vậy chỉ còn có nước đưa hai tay lên kêu gào để hi vọng rất mỏng manh con chim nghe tiếng sợ mà buông đứa con của nàng xuống. Nhưng tiếng kêu gào và đôi bàn tay vẫy lên như vậy đã không cứu được đứa con sơ sinh của nàng mà trái lại đứa con đầu đứng bên bờ bên kia tưởng đâu mẹ gọi mình nên nó đi xuống suối và bị nước cuốn đi chết đuối giữa giòng. Chỉ trong một thời gian rất ngắn nàng mất cả hai đứa con sau cái tang chồng.

Một buổi chiều trời rất buồn và chính bản thân của nàng bị gánh chịu số phận nghiệt ngã nhất của đời người phụ nữ đó là chồng và hai đứa con bị chết trong một thời gian rất ngắn chỉ vọn vẹn trước sau có một vài giờ. Thì có lẽ tâm trạng của nàng trên con đường trở về quê cũ là tâm trạng của một người lá rụng về cuội, bấy giờ với tất cả đau thương phũ phàng nghiệt ngã của đời sống tìm về với cha với mẹ tìm về đời sống gia đình dù có bị la rày dù có bị nhiếc mắng dù có bị người khác xem thường thì ở dưới tình thương của cha của mẹ có lẽ là niềm an ủi còn lại trong cuộc đời của nàng sau khi đã hứng chịu quá nhiều mất mát.

Cuối cùng qua bao nhiêu gian truân khổ ải nàng cũng tìm về được quê hương của mình. Vừa đến đầu làng nàng gặp những người thân quen nàng hỏi thăm về cha mẹ của mình, một người lớn tuổi nghe hỏi im lặng trong giây lát rồi họ chỉ cho nàng từ xa những vầng khói quyện lên như một đám cháy lớn nói đó là nơi dân trong làng đang hỏa táng cha mẹ nàng bởi vì cơn bão ngày hôm qua đã đi ngang làng giết chết rất nhiều người trong đó kể cả cha mẹ của nàng.
Với một người yếu ớt một người mẫn cảm mà lại trong thời gian hết sức ngắn bị nhiều khổ nạn, khổ nạn không phải trút lên thân của mình mà là cướp đi tất cả những người thân của mình. Chúng tôi có nghe một người nói rằng đôi lúc một người bị cụt tay cụt chân thì cái khổ đó không khổ lớn bằng khổ sanh ly tử biệt cái khổ phải xa người thân của mình. Cái khổ phân ly biệt ly đối với người thân của mình đôi lúc khổ đó nặng như một trái núi có thể nhiều hơn bất cứ nỗi đau khổ nào khác mà chỉ có những người trong cuộc mới cảm nhận được như vậy.

Ở trong trường hợp này chúng ta không cần phải dông dài cũng hiểu mọi sự việc xảy ra 5 cái chết của 5 người thân quả thật không còn có gì khác hơn nữa để cho nàng tìm thấy một điểm tựa nào và bấy giờ thì nàng trở nên điên loạn. Một người mà trong thời gian ngắn thân nhân mất đi và tất cả đều là tai nạn không có ai để trách móc mà chỉ có kêu gào với trời đất. Trong một lúc sự mất mát đó đưa nàng về với sự cô đơn tuyệt đỉnh, một sự tuyệt vọng không còn có một chút ánh sáng một chút ý nghĩa nào của cuộc sống tương lai nữa. Theo trong kinh nói Patàcàrà đã trở lên cuồng tâm loạn trí, nàng đã đi thất thểu ngoài đường, vừa đi vừa kêu gào lúc khóc, lúc cười ban đầu với tấm thân của thiếu nữ đau khổ rồi dần dà nàng trở nên loạn trí đến nỗi xé nát tất cả quần áo trên người của nàng. Nhưng bởi vì có túc duyên đã tạo nhiều ba la mật trong quá khứ nên phước báu dông rủi đã đưa nàng đến chùa Kỳ Viên và đi vào trong giảng đường nơi Đức Phật đang thuyết pháp. Có một người nào đó ở trong thính chúng lấy làm tội nghiệp trước hình ảnh một thiếu phụ cuồng tâm loạn trí như vậy đã ném cho nàng một chiếc khăn choàng và nàng tạm thời che tấm thân lỏa lồ của nàng.

Hình ảnh lời nói phong nghi của Đức Phật đã khiến cho nàng tìm thấy được một chút điềm tỉnh trong sự điềm tỉnh nàng có thể lấy chiếc khăn choàng đó phủ lên người của mình và ngồi xuống để nghe Đức Phật thuyết pháp. Đức Phật đã nói cho đại chúng như là lời nói trực tiếp cho nàng, Đức Phật đã cho nàng biết nước mắt sanh ly tử biệt trên mỗi một chúng sanh từ nhiều vô lượng kiếp nước mắt đó nhiều hơn nước trong bốn bể. Đức Phật đã không an ủi với một lời an ủi bình thường, hoặc an ủi với những lời hứa hẹn mà Đức Phật Ngài chỉ soi sáng cho Patàcàrà thấy nỗi khổ đó nó là một nỗi khổ trong muôn ngàn nỗi khổ và đó là bản chất thật của đời sống. Có thể thấy không ai trong cuộc đời này khi gặp sự khổ mà không cần sự an ủi. Ở đây, Đức Phật Ngài không dùng lời an ủi để dành cho Patàcàrà người thiếu phụ bất hạnh đó mà Ngài nhân dịp đó chỉ khai tâm và cho Patàcàrà thấy được nỗi khổ đó chỉ là nỗi khổ điển hình trong muôn ngàn cái khổ của kiếp trầm luân. Lời dạy của Đức Phật đã làm cho Patàcàrà ngộ và nàng thấy rằng đây là lúc thích hợp để trở thành vị Tỳ Kheo Ni.

Chúng tôi nhắc thêm một điều nữa, ngày xưa đời sống xuất gia có khác hơn bây giờ rất nhiều. Ngày xưa một người đau khổ bỏ vào chùa xuất gia có khác với ngày hôm nay, hôm nay đôi khi người ta nghĩ mái chùa là nơi nương náu, là dưỡng đường, là nơi dung thân cho những người không còn sinh lộ ở trong đời sống thế tục nữa. Thật ra một người xuất gia vào thời Đức Phật còn tại thế một hình ảnh đầy phấn đấu đó là sự lựa chọn rất can đảm bởi vì nhiều lắm ở trong chùa thì chỉ có một am tranh hoặc những gốc cây đó đây trong tăng viện hay ni viện còn lại thì vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni hoàn toàn phải tự lo lấy đời sống của mình ngày ngày đi khất thực và khi trở về thì làm một việc cần thiết mà bậc xuất gia đã làm đó là tu tập cho đến khi thành tựu đắc đạo chứng quả , do vậy hình ảnh của nàng trở về trong đạo tràng của Đức Phật là một hình ảnh chuyển mình là một hình ảnh đi vào trong giai đoạn mới.
Rồi có một lần tỳ kheo ni Patàcàrà khi dội nước lên chân để rửa đã nhìn thấy những giọt nước rửa chân tan biến vào trong lòng đất đã chợt thấy được bản chất của hiện hữu. 

Hiện hữu chỉ là sự nắm bắt ở trong một lúc nào đó ví dụ như chúng ta nhìn thấy một cánh hoa đẹp, chúng ta nhìn thấy chiêu dương lên trên đầu núi cái óng ả của những sợi nắng buổi ban mai mình nghĩ đó là đẹp, thật ra mình chỉ nhìn ở trong một khoản khắc nào đó hình ảnh đó đi vào trong lòng. Nhưng nếu cuộc sống nhìn một cách toàn diện, cái gì đến và cái gì đi, cái gì do duyên có mặt rồi do duyên diệt tận, nhìn thấy một hình ảnh toàn diện như vậy chắc chắn chúng ta sẽ có một thái độ hoàn toàn khác với đời sống của mình nó giống như một ít nước giữ trong gáo dội lên chân và từ từ tan biến vào trong lòng đất những sự hiện hữu được nhìn thấy ở những lúc sanh cho đến lúc diệt.

Và không phải chỉ có chừng đó, nó còn một gợi ý rất lớn là ở trong mỗi con người chúng ta từ mỗi một sát na pháp cho đến sát na tâm pháp, từ hơi thở ra vào cho đến cảm giác vui buồn, từ cảm giác dễ chịu cho đến cảm giác khó chịu của cơ thể v.v.. mọi thứ không có tồn tại lâu dài mà nó chỉ là những đắp đổi của những bóng hình thoạt đến thoạt đi và sự hiện hữu là sự kết hợp của những pháp sanh diệt liên tục như vậy. Thấy biết và chứng ngộ Patàcàrà đã trở thành một vị Thánh Ni với đầy đủ lục thông, đây là một trong những thành tựu rất lớn để làm vừa đoạn tận phiền não mà cả hai phương diện tâm giải thoát và tuệ giải thoát rất cao. Về phương diện tâm giải thoát và chứng đắc các tầng thiền sắc giới, vô sắc giới và về phương diện tuệ giải thoát là thành tựu đạo quả và vị này thành tựu với đầy đủ lục thông có thể chứng đắc tứ thiền và cộng với lậu tận thông như vậy vị này là một trong những vị Thánh Ni có những thành tựu lớn về phương diện chứng đắc giải thoát kể cả hai phương diện tâm giải thoát và tuệ giải thoát.

Sống trọn kiếp trăm năm
Không thấy pháp sanh diệt
Chẳng bằng chỉ một ngày
Lẽ vô thường thấu triệt

Chúng ta đã nghe những câu Phật ngôn với ý nghĩa tương tự như vậy không phải một lần mà rất nhiều lần ở trong đời sống của mình có thể quá quen thuộc đến đỗi chúng ta nghĩ đó là một thứ nhân sinh quan của một đạo giáo một nhân sinh quan của một người Phật tử nói lên tâm trạng yếm thế của Đạo Phật. Nhưng bài kệ đó không phải là một bài kệ đơn giản để suy tư mà là một bài kệ đơn giản nói lên quan niệm của Đạo Phật về kiếp người.

Sống trọn kiếp trăm năm
Không thấy pháp sanh diệt
Chẳng bằng chỉ một ngày
Lẽ vô thường thấu triệt

Nói lên một sự nhận thức xác thực và sự nhận thức này có đôi lúc được xem như một cánh cửa đi vào giác ngộ giải thoát mà cổ Đức đã dùng chữ giải thoát môn để chỉ cho tính vô thường của sự vật.

Thật ra vô thường không phải là một triết lý, vô thường nói lên một cái nhìn chân xác về đời sống, chúng ta có thể nhìn thấy rất nhiều thứ ở trong đời sống của mình nhưng chúng ta chỉ nhìn thấy một khía cạnh duy nhất đó là những gì mình thích. Lấy ví dụ chúng ta chỉ nhìn đóa hoa lúc nó nở lúc nó đẹp và khi đóa hoa đó tàn thật sự nó không nằm trong sự chú ý của chúng ta nữa. Hoặc giả cái gì mình có mình thủ đắc được ở trong đời sống trong lòng thì mình chỉ nghĩ đến những lúc những thứ đó thuộc về của mình, mình làm chủ nó và nó hiện hữu với tất cả sự hiện hữu khả ái khả ý nhất của điều đó. Nhưng khi nó đi rồi thì chúng ta tìm cách lãng quên, có thể chúng ta sẽ đi tìm đuổi bắt những hình ảnh khác mà chúng ta nghĩ rằng có thể thay thế hình ảnh này nhưng quả thật ở trên đời này không có cái gì có thể thay thế được.

Hơi thở vào hơi thở ra và vạn vật cũng vậy có sanh có diệt không phải là vì chúng ta chỉ muốn nhìn thấy sự hiện hữu của sự vật chúng ta có thể chối từ được sự chấm dứt của sự vật. Cuộc đời không giống như một cuốn phim video chúng ta coi trong máy, ở trong máy đoạn nào không thích chúng ta có thể cho nó qua nhanh như chúng ta muốn, nhưng cuộc sống thì nó đến và nó đi theo trật tự riêng của nó, chỉ có bậc trí nhìn thấy tiến trình trọn vẹn thành tụ hoại không của một kiếp, sanh tiến dị diệt của một sát na sắc pháp chúng ta tìm thấy được một sự hình thành và diệt tận của vô số nhân duyên của đời sống này thì lúc đó chúng ta mới có hình ảnh rõ nét về đời sống.

Ở đây, có một điều rất thú vị. Đạo Phật không dạy chúng ta phải đi rất xa phải học rất nhiều với một kiến văn rộng lớn thì chúng ta mới có hình ảnh xác thực về đời sống nhưng cái hình ảnh xác thực về đời sống có nghĩa là cái gì có đến có đi, cái gì có sanh có diệt mà chúng ta có thể nhìn thấy, và có thể nhìn thấy được chân tướng của vạn pháp ở trong thể trạng của hiện hữu và tan biến như vậy thì chúng ta mới có một hình ảnh trọn vẹn.

Và Đức Phật dạy không có mấy người thực sự hiểu bởi vì nếu chúng ta có thực sự hiểu được sanh diệt của vạn vật nó không những chỉ chuyển hóa được cái nhìn của mình về đời sống mà đó là một sự chuyển hóa toàn bộ những căn để của đời sống kể cả phiền não.

Chúng tôi lấy ví dụ những vị thiền sư thường đề cập đến đời sống của chúng ta là một đời sống của trốn thoát của tránh né. Chúng ta ngồi một lúc nào đó mỏi chúng ta đứng dậy bước đi, chúng ta đi một lúc chán thì đứng lại hay nằm xuống. Chỉ thái độ thay đổi oai nghi trong đời sống theo ý muốn của mình, mình thấy nó là tự tại nhưng với các vị thiền sư đó chỉ là sự né tránh thôi. Có đôi lúc các Ngài dạy nếu trong lúc chúng ta ngồi chân bắt đầu đau hãy ráng thêm một chút, cái ráng thêm một chút đó nó chẳng những gia tăng ý lực của chúng ta mà nó còn cho chúng ta thấy một khía cạnh, nó hé mở cho chúng ta thấy một thế giới khác đó là sự bất toàn của đời sống đó là sự chấm dứt cảm giác lạc thú.

Phải nói rằng có những lúc chúng ta vào ngồi thiền chúng ta rất hoan hỉ và hoan hỉ ngồi trước bàn Phật trước vị thiền Sư trong không khí nhẹ nhàng trang nghiêm để ngồi thiền. Nhưng cảm giác hoan hỉ đó chỉ có thể tồn đọng trong 10 phút, 20 phút rồi chúng ta cũng phải đối diện với một thứ khác đó là cảm giác lạc thọ không có tồn tại hoài ở trên thân của chúng ta. Và hỉ thọ không tồn tại hoài ở trong tâm của chúng ta mà nhường vào chỗ đó là tê nhức đó là đau buốt, đó là mệt mỏi, đó là mong muốn buổi ngồi thiền được chấm dứt. Chỉ khi nào chúng ta thực sự ngồi và có cố gắng thì chúng ta mới có thể nhìn thấy được sự vật rõ nét hơn như vậy còn nếu không cuộc sống của chúng ta chỉ là một cuộc chạy trốn thực tại.

Thì ở đây, khi đề cập đến trạng thái sanh diệt "Ai sống một trăm năm không thấy pháp sanh diệt", chữ sanh diệt ở đây có thể nói đó là một hình ảnh trọn vẹn một hình ảnh có đoạn đầu có đoạn giữa có đoạn cuối và không phải những thứ đó nó quá mờ ảo, không phải những thứ đó nó quá nhạt nhòa đến đỗi chúng ta không thấy được. Cái lý do chúng ta không thấy được tại vì thói quen của chúng ta không muốn thấy.

Những vị thiền sư thường mời chúng ta làm một cố gắng rất nhỏ là nếu chúng ta thích một cái gì đó thì đừng chận nó lại. Ví dụ quí vị thích mua một cái gì đó thì cứ đi mua đi nhưng bên cạnh đó chúng ta làm một tín hiệu của hiền giả đó là nhìn cảm giác đó một cách lẳng lặng để thử xem mình thích những thứ đó như thế nào và khi mình có nó thì cảm giác như thế nào và cảm giác ưa thích đó nó tồn tại bao lâu và nó chấm dứt lúc nào? Nếu chúng ta có được một cái nhìn lẳng lặng từ lúc nó sanh lên cho đến lúc nó chấm dứt thì cái nhìn đó là một cái nhìn toàn diện, chữ toàn diện ở đây không nhất thiết là cái nhìn đông tây kim cổ, không nhất thiết là cái nhìn nhân ngã bỉ thử, không nhất thiết là cái nhìn của hữu hình của siêu hình. Cái nhìn ở đây chỉ nhìn một sự việc trọn vẹn cả một tiến trình mà điều đó có một thay đổi lớn với đời sống đó là một bức tranh rõ nét toàn diện chứ không phải là cái nhìn bình thường của chúng ta chỉ nhìn cái gì mình thích và chỉ tập trung vào cái gì thật sự bắt mắt mình, điều đó không có ở trong cái nhìn của một thiền giả. Và vì vậy với một người có tập thiền và có đọc những trang kinh Phật thì hiểu rất rõ ý nghĩa này.

Ngài Ajahn Chah nói một con người có thể nắm một miếng vải không nhất thiết họ phải nắm được tất cả nhưng nếu nắm được một góc nào đó thì có thể kéo nguyên cả tấm vải lên.Thì tương tự như vậy người ta có thể nhìn thấy được sự vô thường trong cảm thọ của mình, trong hơi thở của mình, trong những chuyển biến của thân mình, nhưng mà ở đó người ta có thể nhìn thấy chân tướng của vạn pháp và của toàn thể các trạng thái pháp hữu vi như là Patàcàrà có thể nhìn thấy chân tướng của cuộc đời này trong những giọt nước tan biến vào trong lòng đất.

Chính vì vậy không ai có thể xem thường điều đó nếu nói một cách nghiêm túc bởi vì trong đó họ hiểu được tất cả giống như những người nghiên cứu ở phòng thí nghiệm đôi lúc vật thí nghiệm mà họ nhìn nó không nhất thiết là một vật lớn hay đôi lúc cái mẫu họ quan sát nó chỉ là mẫu rất nhỏ thôi nhưng hiểu được bản chất của mẫu thí nghiệm đó thì qua đó họ hiểu được rất nhiều về những gì tương tự. Thì ở đây khi một người nhìn thấy được đặc tính của sanh và diệt của đến và đi người đó hiểu được một điều quan trọng đầu tiên đó là thay đổi cái nhìn của mình, cái nhìn của mình là cái nhìn rất hời hợt cái nhìn của mình chỉ là cái nhìn thuần về bản năng, cái nhìn đó Đức Phật gọi là cái nhìn không có tu luyện.

Có những năm tháng chúng tôi ít để ý đến các loài cây kiểng trồng ở trong sân chùa, nhưng một lần quen với một đạo hữu thích trồng bonsai trồng kiểng đạo hữu đó có đề cập đến cách quan sát một cái cây, nhìn thân cây như thế nào để hiểu cái rễ, nhìn thân cây như thế nào để có thể hiểu loại đó thích hợp với mùa màng như thế nào v.v... Thì cái nhìn của vị chuyên nghiệp về trồng cây đó không phải là cái nhìn đơn giản chúng ta lấy mắt ngó mà chúng ta có thể có cái nhìn đó, mà cái nhìn đó phải dựa trên một cơ sở căn bản của sự hiểu biết, và chỉ khi nào mình thay đổi cái nhìn của mình thì cũng chiếc lá đó, cũng cái rễ đó, cũng thân cây đó chúng ta có thể lãnh hội sự việc khác đi. Tương tự như vậy, một hành giả nhìn thấy sanh và diệt của sự vật lâu ngày, đặc biệt là qua hơi thở của mình, qua cảm thọ của mình có cái gì liên quan đến nội thân, liên quan đến ngoại, thân liên quan đến 5 uẩn sắc thọ tưởng hình thức thì người này tự thấy được một chuyện rất quan trọng đó là cái nhìn bản năng của mình có vấn đề, cái vấn đề của nó là nó chỉ biết có một chuyện mà thôi.

Chúng tôi rất nhiều lần được nghe những câu chuyện về những ông cha bà mẹ có con ở trong tuổi 15, 16, 17, 18 cái tuổi con cái bắt đầu vừa mới lớn ham chơi và thích được tụ tập với bạn bè, một trong những điều cha mẹ rất khó là làm sao để cho con có một đánh giá đúng mức về thì giờ của mình, về bạn bè mà mình giao thiệp, về cái ưu tiên của đời sống để mình theo đuổi. Thông thường việc làm đó cha mẹ rất vất vả cho đến khi con lớn lên một chút mới biết cảm kích, thông thường thì con không hoan hỉ. Thì ở đó nói lên trong cuộc sống này không phải chúng ta mở con mắt chúng ta ra ở giữa ban ngày nhìn một chiếc lá trước mặt là ai nhìn cũng giống nhau, hoặc giả quí vị bước vô chánh điện không phải ai nhìn tượng Phật cũng có cảm giác giống nhau, và cũng không phải ai trong chúng ta ngồi ở trong pháp hội này khi đọc bài kệ:

Sống trọn kiếp trăm năm
Không thấy pháp sanh diệt
Chẳng bằng chỉ một ngày
Lẽ vô thường thấu triệt

Không phải ai trong chúng ta đọc bài kệ đó cũng có cảm giác giống nhau hết.

Một người quen thuộc với đề tài họ sẽ có cảm giác khác, một người có thể đào sâu vào đề tài có thể có cảm giác khác. Đôi khi chúng ta có kiến văn rất là quan trọng, kiến văn rất rộng lớn nhưng ngay lúc đó tự nhiên không thấy điều đó có ý nghĩa gì với mình hết. Không phải có một lần mà có rất nhiều lần trong đời sống của mình những cảnh ngộ bỗng nhiên làm cho chúng ta nhớ đến, nhớ đến cái gì? chúng ta nhớ đến một câu tục ngữ một câu thành ngữ nào đó ông bà đã để lại, câu thành ngữ đó mộc mạc đơn sơ giống như tâm hồn chơn chất của những người nông dân và có lẽ khi chúng ta còn nhỏ chúng ta không bận tâm chuyện đó, chúng ta chấp nhận câu chuyện gì cao xa, chúng ta thích những công trình nghiên cứu về khoa học, chúng ta muốn nói chuyện đông tây kim cổ. Nhưng mà rồi trong một cảnh ngộ nào đó bỗng nhiên một câu nói rất thường tình mà câu nói thường tình đó lại làm cho chúng ta hết sức thấm thía. Tại sao nó thấm thía là tại vì nó mở con mắt huệ của chúng ta, nó cho phép chúng ta đứng trên một vị trí mới nhìn thấy sự việc với một thái độ mới.

Ở đây, khi Đức Phật Ngài đề cập đến pháp sanh diệt, sự sanh diệt của pháp, chữ udayavyaya.m tức là sanh phải diệt. Hầu như đó là một việc rất đơn giản như chúng ta chỉ cầm một cái ly và ném cái ly xuống là chúng ta có thể nhìn thấy thế nào là một sự hiện hữu và sự hiện hữu biến mất. Nhưng ở trên thực tế thì không dễ dàng nếu chúng ta có thể nhìn thấy cái đứng, cái đi, cái sanh, cái diệt của thân mình, của tâm mình, cảm thọ của mình cái gì mà nó xảy ra trong mỗi chúng ta và thường chuyên thấy như vậy và thấy bằng thái độ có hiểu biết, thấy bằng thái độ thanh thản nhận chân ra sự vật thì nhân sinh quan của chúng ta không giống như nhân sinh quan của mình đang có.

Có thể nói, ngày xưa khi đề cập đến giáo lý vô thường, khổ, vô ngã người ta gọi là tam pháp ấn hay tam giải thoát môn hoặc giả người ta có thể dùng nhiều danh từ rất hoa mỹ rất cầu kỳ hoặc danh từ rất bình thường thì chúng ta nghe những điều đó nghe chỉ để nghe thôi. Nhưng bây giờ tự hỏi một câu ở trong trường hợp của Patàcàrà có thể cũng là hình ảnh của chúng ta trong một sự dồn dập trong một thời gian ngắn nào đó bỗng dưng có quá nhiều điều phiền lụy và sự phiền lụy ở đây hầu như từ sự tuyệt vọng này dẫn đến tuyệt vọng khác, một ông chồng bị rắn độc cắn chết mình có thể làm được gì, đứa con bị chim tha, một đứa con bị chết đuối giữa giòng mình có thể làm được gì, cha mẹ chết trong cơn thiên tai bão lụt mình làm được gì, và tất cả những điều đó có thể là mình hoàn toàn không muốn, tất cả những điều đó có thể mình sẽ bằng lòng đánh đổi nếu một người có một thân nhân qua đời và đặc biệt người thân nhân đó rất gần và rất thương đối với bản thân của mình thì có thể lúc đó mình có thể đánh đổi bất cứ thứ gì.

Chúng tôi mồ côi cha rất sớm lúc 10 tuổi, khi biết cha mình mất rồi có những lúc cho dù bắt đầu một cuộc hành trình đi không biết qua bao nhiêu gian khổ mà có thể tìm thấy được sự sống của người cha có thể mình cũng sẽ đi, mình chỉ mong gặp lại người cha của mình thôi. Tâm trạng đó khi nói đến khổ của sanh ly tử biệt đa số chúng ta phải làm gì với chuyện đó cho đến khi nào mình đặt mình ở trong tâm trạng đó và chúng ta có thể hiểu một phần tâm trạng của Patàcàrà thì lúc đó mình mới hiểu tại sao chỉ có những giải thoát môn của vô thường, khổ, vô ngã, chỉ có một người mà thay vì dùng tất cả sức bình sinh của mình để khóc và khóc mãi không ngừng thì chúng ta vận dụng tất cả can đảm mở mắt ra và nhìn thấy được nó là như vậy, con người ai cũng gặp sự sanh ly tử biệt lúc đó chúng ta sẽ hiểu được tại sao chỉ trong một phút nhìn thấy được sanh diệt hơn cả trăm năm sống trong cuộc đời này vô thường.

Nên chi đề tài 3 pháp vô thường khổ vô ngã Đạo Phật thường đề cập đến rất nhiều ở trong các pháp thoại, đề cập đến rất nhiều ở trong kinh điển, có đôi khi không khó để chúng ta hiểu trên phương diện lý luận trên phương diện ngôn ngữ, có đôi khi hoàn toàn không khó để chúng ta có thể hiểu trên phương diện triết lý nhưng rất khó để chúng ta đem sự hiểu biết đó hòa quyện ngay với cái nhìn thực tại của mình, cái nhìn thực tại đó là cái nhìn mà nó có khoản cách rất xa.

Chúng ta đọc câu chuyện của Patàcàrà chúng ta nghe những người chết vì bệnh sida, chúng ta nghe những người chết ở trong những trận chiến tranh, mình nghe hầu như là nỗi thương đau đó nó rất xa với mình và chuyện đó hầu như không bao giờ xảy ra cho mình. Mình có thể đọc những câu chuyện của những người chết vì tai nạn lưu thông, Việt Nam là một trong những nước tai nạn lưu thông xảy ra nhiều nhất trong thế giới tính theo tỉ lệ đầu người, thế mà có thể khi chúng ta nghe chuyện đó chúng ta nghe như chuyện đó chỉ xảy ra với những người khác nó không bao giờ xảy ra ở trên thân của mình, không xảy cho những người thân của mình và cho cuộc sống của mình.

Chúng ta tưởng tượng nó ở đâu đó mà mình nhìn thấy rất dửng dưng. Nhưng Đức Phật đã nhắc rất rõ một sự vô thường cái sanh và cái diệt không phải chỉ xảy ra với người khác không phải chỉ xảy ra với một con người quá nhiều bất hạnh như Patàcàrà, thật ra nó có thể xảy ra ở trong chúng ta và chắc chắn sự vô thường xảy ra liên tục bất tận miên mật ở trong từng giây phút một, không phải chỉ có sự vô thường của hơi thở, của cảm thọ của thân, cảm thọ của tâm, đến những chập tư tưởng mà hầu như toàn bộ cuộc sống như là những bong bóng nước, những bong bóng đó chúng ta nhìn ở bên ngoài không thấy gì, quan sát rất kỹ không có bong bóng nào đứng yên hết nó luôn luôn là sự luân chuyển của nhiều hình thức của nhiều dạng khác nhau để rồi cái này nở ra cái kia lại tan biến đúng là phù du, đúng là phù vân, đúng là một bức tranh vân cẩu. Chúng ta có dùng bao nhiêu danh từ đi nữa thì cũng không diễn tả được hết chỉ cho đến khi nào chúng ta nhìn điều đó như là một cái nhìn trước mắt của mình, trong hơi thở của mình, trong cảm thọ của mình, như là chúng ta nhìn đôi bàn tay của mình, thì lúc đó chúng ta cảm nhận được rằng tại sao nhìn vào cái sanh diệt mà nó có công năng chuyển hóa lớn như vậy./.