Tuesday 10 May 2016

Kệ Ngôn 110 - Tịnh giới khiến đời sống có ý nghĩa - TT Giác Đẳng

Psychotheraphy, Meditation
Kệ Ngôn 110 

Tịnh giới khiến đời sống có ý nghĩa

Thap Nhi Nhan DuyenGiảng Sư: TT Giác Đẳng 

Dù sống đến trăm năm
Phóng túng, không thiền định
Chẳng bằng sống một ngày
Giới tịnh và thiền tịnh





.
Chánh văn kệ ngôn pháp cú do Thượng Tọa Giác Đẳng dịch từ Pali
Yo ca vassasata.m jiive
dussiilo asamaahito
Ekaaha.m jiivita.m seyyo
siilavantassa jhaayino.

Minh Hạnh chuyển biên:

Có lẽ một trong những đặc điểm của người tu tập hay bất cứ người nào đeo đuổi hoài bảo quan trọng trong cuộc đời là chúng ta phải đặt để những ưu tiên của cuộc sống mình.

Những ưu tiên cuộc sống có thể là những ưu tiên do cha mẹ, do xã hội đề ra. Nhưng riêng đối với một người tu tập những ưu tiên đó là giá trị chân thật trong đời sống này, và khi ưu tiên đó được đặt ra rồi thì mọi sinh hoạt trong đời sống chúng ta sẽ theo đó thay đổi. Sự chuyển hóa của nó rất màu nhiệm đến đỗi chúng ta không cần phải vật lộn với chính mình.

Chúng tôi nhớ nhân vật Tất Đạt trong quyển sách của Hermann Hesse được Ni Sư Trí Hải dịch "Câu chuyện giòng sông". Tất Đạt trinh bày với Kiều Lan tâm trạng của mình trong kiếp Samon, nói về tâm trạng một người có thể nhìn thấy rõ những cứu cánh cái gì mình hướng đến và tự nhiên tất cả những thứ khác đều sinh hoạt đi kèm theo ý hướng đó như một viên sỏi khi được ném xuống hồ viên sỏi đó sẽ tự nó tìm tới đáy hồ tại vì luật tự nhiên của trọng lượng là như vậy. Vì vậy đối với Đức Phật có thể nói Ngài nhìn cuộc sống tu tập một cuộc sống có ý hướng rõ ràng, ý hướng đó là Giác Ngộ Giải Thoát, ý hướng đó có được thể hiện tốt hay không tốt dựa lên trên một căn bản, tương tự như một người muốn làm một công việc gì đáng kể trong đời sống này thì họ phải có một số kiến thức hay một số khả năng tài chánh hay một số cơ sở căn bản về khả năng để họ có thể phát triển được.

Trong bài kệ 110 Đức Phật Ngài đặc biệt đề cập đến một sự việc nhân câu chuyện của Sadi Samkicca, vị Sadi này có một túc duyên đặc biệt ở trong quá khứ do túc nghiệp thuở xa xưa nên đời này vị Sadi này đắc đạo chứng quả lúc còn rất nhỏ và có một phước phần hộ trì mà không có cái gì có thể tổn hại được kể cả gươm đao.
Nhân có một số các vị Tỳ Kheo quyết định vào trong rừng tu tập Đức Phật Ngài biết có một hiểm nạn sắp xảy ra cho các vị Tỳ Kheo ở trong khu rừng này nên Ngài đã khuyên các vị hãy đến gặp Ngài Xá Lợi Phất để cầu thỉnh Ngài Xá Lợi Phất cho Sadi Simkicca đi theo. Ngài Xá Lợi Phất khi được các vị Tỳ Kheo yêu cầu như vậy Ngài hiểu ngay tôn ý của Đức Phật và Ngài đã trực tiếp yêu cầu vị Sadi Simkicca đệ tử của Ngài đi theo.

Như điều Đức Phật Ngài đã nghĩ, đó là nhóm các vị Tỳ Kheo đã gặp một bọn cướp, những người trong bọn cướp đó có một niềm tin rất mạnh mẽ về việc cúng tế thần linh. Chúng ta biết trong một số xã hội các nghề nghiệp họ thường có một số thần linh kể cả những nghề ở trong thanh lâu kỷ viện họ cũng có thần Bạch Mi chẳng hạn, những người ăn cướp này cũng có thần riêng của họ và điểm này sự thực hành hết sức quen thuộc trong tín ngưỡng của Ấn Độ thời xưa và ngày hôm nay. Cách tế thần của họ rất dã man bởi vì họ là tướng cướp và thần của ăn cướp thì phải là vị thần cúng tế bằng chuyện giết người cướp của, vì vậy thường thường trong mỗi lễ tế thần họ chọn nạn nhân vô tội đưa lên hoả đài và dùng cây đâm chết người này sau đó nổi lửa thiêu xác người này để cúng tế cho thần.

Vị Sadi Simkicca vốn có phước ở túc nghiệp hết sức thù thắng do vậy không có bất cứ tai nạn nào có thể làm thương hại được tính mạng và phong thái an nhiên cũng như những diễn biến kỳ lạ xảy ra trên người của vị Sadi này khiến cho đảng trưởng của bọn cướp phát tâm quy ngưỡng và không phải chỉ riêng người đảng trưởng qui ngưỡng mà những người lâu la khác thấy như vậy cũng làm theo, cuối cùng Sadi Simkicca đã cảm hoá được tất cả những người trong bọn cướp và đưa họ về chùa để gặp Đức Phật.

Câu chuyện đó được nhắc đến không phải chỉ qua những tình tiết kỳ lạ liên quan đến cuộc đời của vị Sadi Simkicca mà Đức Phật Ngài nhắc đến hai hình ảnh, hình ảnh của con người sống cả trăm năm ở trong số trăm năm đó họ sống dussiilo tức là sống trong ác giới hay sống phóng túng trong ác giới, họ mang lại vô số thương đau cho người khác, những hành động lời nói và việc làm của những người này không bao giờ có một chút gì quan tâm đến nhân quả, quan tâm đến cái lợi cái hại cho mình và cho người. Đức Phật Ngài đã làm một so sánh một người sống trăm năm trong ác giới như vậy không bằng sống một ngày có giới và có thiền định.

Có giới có thiền định ở đây là nếu một người muốn phát triển khả năng tập trung tư tưởng và chánh niệm tỉnh giác của mình thì người đó rất cần một căn bản đó là một đời sống có nghị lực, một trạng thái ổn định về phương diện tâm lý và sự ổn định này dựa trên một số nguyên tắc mà vị này sống.

Giới trong Đạo Phật đề cập xưa nay nói lên một cái gì có thể ảnh hưởng đời sống của chúng ta sâu đậm hơn là một số quan niệm của những người ở bên ngoài cho rằng giới cấm hay những điều răn đó là những nghi luật của tôn giáo mà chúng ta phải hiểu giới là những nguyên tắc từ những nguyên tắc này con người của chúng ta lấy lại một phong thái, lấy lại được một tinh thần vững vàng ở trong cuộc sống của mình, "àh cuộc sống cần như vậy chúng ta đã làm như vậy". Khi mình đã làm như vậy mình thấy yên tâm rằng mình đã không phạm vào những nỗi lầm nghiêm trọng và đồng thời khả dĩ có thể đi xa hơn trong cuộc sống tinh thần. Phải có một cái nhìn hết sức toàn diện mới thấy được giới quan trọng như thế nào ở trong đời sống thiền định.

Lấy ví dụ, khi chúng ta đề cập đến Bát Chánh Đạo, trong đó cái gọi giới phần là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng. Chánh ngữ là lời nói không gây thương tổn cho người khác và không gây thương tổn cho bản thân của mình, lời nói đó được hiểu là lời nói nằm ngoài bốn lời ác ngữ, lời nói tà ngữ và lời nói vọng ngữ, chúng ta muốn nói đến nói dối, nói đâm thọc, nói độc ác, nói nhảm nhí vô ích, thì những điều này đối với chúng ta chỉ là những gì đến và đi như gió thoảng, như mây bay. Có thể nói rằng có rất nhiều người xem lời nói của mình không có gì hệ trọng với cuộc sống cá nhân hết. Nhưng mà rồi với Đức Phật thì Ngài cho chúng ta biết rằng không có một người nào có thể đi xa hơn đời sống tinh thần mà người đó thiếu chánh ngữ hay những lời nói của họ lúc nào cũng nói vọng ngữ. Lời nói vọng ngữ chứng tỏ tâm tư của họ chưa có khả năng ổn định an lập và họ chưa có chịu trách nhiệm một cách thành thực với chính mình và người khác. Do vậy giới ở đây rất quan trọng.

Một quốc gia không luật không lệ, một quốc gia mà người ta chỉ làm theo cái gì hoàn cảnh đưa đẩy ví dụ như do điều kiện bắt buộc, một quốc gia mà nền pháp trị không có ổn định thì rất khó qui hoặch bất cứ kế hoặch tiến bộ gì lớn hơn xa hơn, bởi vì nó không có căn bản an lành của xã hội, xã hội không ổn định và bất cứ luật lệ gì đưa ra thì cái cơ may có thể được đem ra áp dụng rất ít mà cái cơ may bị hỏng trước khi đem áp dụng rất nhiều. Thì bản thân của mỗi người ở trong đời sống này cũng tương tự như một xã hội vậy, nếu chúng ta có được một số các nguyên tắc và những nguyên tắc này là những nguyên tắc được xem là những cơ sở của lời nói, hành động, việc làm, ý nghĩ chánh kiến của mình, thì từ chỗ đó người ta sẽ tạo dựng một niềm tin, tạo dựng một nghị lực. Chúng tôi nghĩ rằng chữ nguyên tắc dùng ở đây có thể làm cho mọi người có cảm giác cứng nhắc không có khả năng linh động nhưng thật ra nguyên tắc ở đây là nền tảng giống như một căn nhà cần đến cái nền cho kiên cố.

Thì chữ giới trong Đạo Phật dạy cho chúng ta một bài học hết sức quan trọng về cuộc sống cho dù chúng ta có biết đạo hay không có biết đạo, cho dù chúng ta có tu hay không có tu, có là người Phật tử hay không phải Phật tử chúng ta luôn sống với một số chủ kiến một số quan niệm, quan niệm cái này nên làm cái kia không nên làm, cái nên và không nên đó có đôi lúc do cơ sở thiếu trí tuệ của chúng ta, thì nó đúng là chữ dussiilo tức là ác giới. Cái nhìn của một người sống ở trong đời sống này nó có thể nói chúng ta có hằng bao nhiêu quyết định phải làm trong đời sống hàng ngày và những quyết định này đều dựa trên chủ kiến đó. Với một người khéo tu tập là một người đem giá trị và lời dạy của Đức Phật của vị Giác Ngộ để trở thành một phần trong nguyên tắc trong cái nhìn của mình, và khi chúng ta nằm xuống ngủ mà mình biết rằng những nguyên tắc đó được áp dụng, ví dụ như một người có thọ tam qui biết cái gì nên tin và cái gì không nên tin, không có thái độ chập chờn, không có thái độ nửa vời ở trong niềm tin của mình thì điều đó lại cho vị này một thế đứng an lập ở trong đời sống tu tập nhờ như vậy vị này lấy được nghị lực.

Một học giả lớn lên trong gia đình Do Thái giáo và ông đi hành thiền ở Insight Meditation Center dưới sự hướng dẫn của ông Joseph W. Huston. Khi ông nhìn 3 pháp của Đạo Phật bố thí, trì giới, tham thiền, 3 pháp được dạy cho người cư sĩ tại gia, và ông nhìn điều này sau đó ông đã viết một tập sách nói lên một sự phát triển mà ông gọi là sự phát triển quân bình, sự phát triển điều đặn về giáo dục con người trong quan niệm của Đạo Phật. Trong cái nhìn của ông cho rằng 3 pháp bố thí, trì giới, tham thiền thường được các nhà Sư Phật Giáo cho đó là pháp tạo phước của người cư sĩ, nhưng trên thực tế thì 3 pháp đó đặt ra nền tảng con người là ai và con người nên được hướng dẫn như thế nào:

- Khi con người sống biết ban bố tức là biết cống hiến, bố thí là biết cống hiến.
- Trì giới ông nói là đó là biết gìn giữ hay biết sống với nguyên tắc.
- Và thiền định tức là biết cách để thanh lọc nội tâm.

Thì ông cho rằng khó có thể đi tìm thấy một sự giáo dục nào gọi là chân chính trong loài người mà nằm ở bên ngoài 3 lãnh vực đó, lãnh vực mà con người sống với tinh thần cống hiến, sống với tinh thần biết gìn giữ, và đồng thời biết phát triển đời sống tâm linh của mình. Cuốn sách của ông viết không dầy nhưng khi đọc quyển sách đó chúng ta có cảm nhận được một điểm rất thân thiết giống như khi chúng ta đọc trong Thanh Tịnh Đạo trong 7 bước dẫn đến Giác Ngộ thì giới tịnh được xem là cơ sở bắt đầu để dẫn đến tâm tịnh tức là làm cơ sở cho thiền định.

Dĩ nhiên, thỉnh thoảng chúng ta đọc nhiều câu chuyện tích nói về nhiều người đi rất trực tiếp vào tuệ giác có nghĩa chỉ nghe Đức Phật thuyết pháp nghĩa là trong giờ phút đó khai triển tuệ quán và thành tựu được đạo quả. Việc đó là việc đối với những vị Balamật chín mùi, balamật đầy đủ, chúng ta có thể không thấy vị đó tu giới ở trong khoảnh khắc nhưng trong nhiều đời nhiều kiếp vị này đã dùng giới làm nền tảng. Những vị ai có học về pháp balamật thì hiểu rõ về điều này .

Tuy nhiên, khi nói đến phương pháp tu tập thì một trong những tự tại người hành giả hành thiền định phải có đó là khả năng tự chủ ở mức tối thiểu nhất, ví dụ như có những việc nên làm và có những việc không nên làm mà vị đó có khả năng để sống với quan niệm như vậy, thì đó là khả năng của tự chủ.

Thì sự tự chủ trong một vị thiền định đôi lúc không có to lớn như chuyện chúng ta nói không được sát sanh không được uống rượu v.v.. nhưng lấy ví dụ, nếu một vị ngồi thiền trong vòng một giờ đồng hồ và tới khi ngồi được 30 phút chân bị tê và lúc đó mình có ý tưởng làm sao để đứng dậy hay tưởng nghĩ đến chuyện gì khác không phải chăm chú vào đề mục thiền định nữa để mình trốn thoát khỏi sự thực hành của mình ngay trong hiện tại.

Ngay trong giờ phút đó một người có nghị lực và người không có nghị lực rất khác biệt nhau.
Một người có nghị lực một người có khả năng tự chủ họ có thể rất dễ dàng để từ ý nghĩ của họ làm một quyết định mà quyết định trung thành với những gì họ đã lựa chọn từ ban đầu từ phút họ quyết định ngồi xuống để hành thiền.

Nhưng ngược lại có một số người tâm ý không đủ mạnh như vậy , họ không có sức mạnh không có nghị lực, cuối cùng họ bỏ cuộc tại vì theo trong kinh Phật họ thiếu căn bản về giới.
Có lần một Phật tử hỏi về một chuyện là trong quan niệm hết sức từ chương của một số người thì cho rằng bố thí sanh ra giàu có, còn tại sao trì giới cũng là nhân sanh phú quí giàu có được? Ví dụ, những Phật tử thọ giới Chư Tăng thường hay dạy câu:

"Những người sanh về cõi an lạc cũng nhờ giữ giới, những người được giàu sang phú túc cũng nhờ giữ giới".

Đó cũng là câu hỏi thú vị bởi vì chúng ta quan niệm chỉ có sự bố thí mang lại sự giàu có nhưng Chư Tăng lại nói rằng:

"Những người sanh về cõi an lạc cũng nhờ giữ giới, những người được giàu sang phú túc cũng nhờ giữ giới, người chứng đắc Niết-bàn cũng nhờ giữ giới".

Thì ở đây có ý nghĩa là ngay cả một người khoan kể đến thiền định, khoan kể đến giải thoát, khoan kể đến một cuộc hành trình mang tánh cách nghiêm trọng về tinh thần, nếu một người trong tay họ cầm tiền và nếu họ không phải là một người có nghị lực tốt, một cái nhìn tốt thì đồng tiền đó có thể là một thứ lửa đốt cháy chính họ và sự giàu có thể mang lại cho họ vô số hiểm họa, họ không biết cách giữ đồng tiền như thế nào thích hợp thì một người có thể làm được chuyện đó thích hợp trước nhất là người đó phải có căn bản về chữ giới ở đây mà Đức Phật Ngài đã dạy.

Có lẽ không có một đoạn kinh nào làm cho chúng ta thấy được vai trò của giới đối với thiền định rõ nét như khi chúng ta bàn về thất tịnh tức là 7 pháp thanh tịnh hóa nội tại để thành tựu chánh trí như trong quyển Thanh Tịnh Đạo của Ngài Buddhaghosa, Ngài có một mô tả rất tường tận mà thậm chí Ngài đã đi xa hơn ở trong phần này là Ngài đã đặt để vào trong đó 13 pháp Thọ Đầu Đà. 13 pháp Thọ Đầu Đà là cái khái niệm vượt ngoài quan niệm về Ngũ Giới, Bát Quan Trai giới, Sadi giới, Tỳ Kheo giới và ở đó nói lên một ý nghĩa một người tự nguyện tuân giữ một số nguyên tắc nào đó và sự tuân thủ những nguyên tắc đó họ lại phát sanh ra nghị lực.

Điều này là một điều Đức Phật Ngài đã từng làm một so sánh trước khi Ngài thành đạo trong quá trình tu tập của Ngài. Ngài so sánh sự thành tựu của tuệ giác giống như 2 khúc gỗ chạm vào nhau để kéo ra lửa. Chúng tôi tin rằng một số trong chúng ta có lẽ chưa bao giờ dùng tới phương tiện này để nhúm lửa bởi vì chúng ta ngày hôm nay có rất nhiều hộp quẹt kể cả những phương tiện khác làm sao để có lửa nhưng hình ảnh kéo lửa của thời kỳ xa xưa rất dễ hiểu, nói chung chúng ta bỏ ít thì giờ để diễn tả ở tại đây, người ta dùng 2 miếng gỗ hay 2 vật rắn chắc đánh vào nhau thì nó sẽ tạo ra những nhiệt lượng và những nhiệt lượng ở trong mức độ thái quá nào đó thì nó sẽ tạo ra lửa mà nó có thể cháy được, thì có một dụng cụ để đánh lửa như vậy ở Ấn Độ ngày xưa họ vẫn dùng và ngày nay ở miền quê họ dùng hai miếng gỗ loại gỗ tên là katina loại gỗ này cứng có chứa chất dầu nhựa cây và Đức Bồ tát Ngài dùng ví dụ nếu 2 khúc gỗ đó ướt thì kéo không ra lửa được và nếu gỗ đó mục không còn rắn chắc thì cũng không thể kéo ra lửa được thì Ngài nói rằng một người đã sống ngâm mình ở trong dục lạc thì giống như 2 khúc gỗ bị ướt chắc chắn không thể kéo ra lửa được, một người không có thực chất nội tại họ giống như một khúc gỗ mục thì không thể nào kéo ra lửa được. Thì ở đây chúng ta thấy ví dụ này rất xác đáng nói rất rõ về hình ảnh tại sao có những bước cần thiết để phát triển tuệ giác.

Vài nhà giáo dục cho rằng trẻ em nếu học bài mỗi ngày được ngồi một chỗ một cái bàn nào đó ở trong nhà, một góc nhà nào đó cố định mỗi ngày như vậy, và với một thời giờ nhất định đúng giờ đó các em đến đó ngồi tại chỗ đó để học bài thì các em sẽ dễ tập trung tinh thần đi ngay vào bày học hơn là nhà nghèo có khi ngồi góc nhà này có khi ngồi ngoài sân có khi ngồi sau nhà để học bài và học vào những giờ không cố định. Cơ thể và nội tâm của chúng ta trong một cái nhìn chiều dài phát triển trước khi có sự can dự của trí tuệ thì nó được hun đúc trên sức mạnh của tập quán của thói quen và nói về tập quán của thói quen thì giới sẽ giúp chúng ta ở điểm đó rất nhiều, có thể nói rằng nếu một số cái nếp nào đó trong đời sống mà nó rõ nét và chúng ta sống với cái nếp đó lâu ngày thì từ chỗ đó chúng ta có thể phát huy được tuệ giác nhanh chóng hơn là lúc đó chúng ta cũng phải lúng túng để làm cái việc đáng lẽ chúng ta nên có sẵn rồi. Một vị tướng ra trận và khi ra trận là họ phải tập trú vào địa hình địa vật và tập trú vào chiến thuật đánh như thế nào, mục tiêu phải chiếm như thế nào, trong lúc đó thì vị này cần phải lúng túng thì giờ phải an quân để làm sao cho binh lính được vững lòng và có những đội binh không tinh nhuệ họ không kỷ luật thì tất nhiên vị tướng dù có giỏi đi nữa thì cũng sẽ rất lúng túng, bởi vì sao vậy? họ chưa ở thế sẵn sàng để ra trận.

Thì ở đây Đức Phật Ngài hé mở cho chúng ta biết rất nhiều bí mật về cuộc sống này không phải cái trí tuệ bao giờ nó cũng đóng vai trò tiên khởi trong việc dẫn đạo mà chính là những thói quen và những thói quen này nếu nó là thói quen tốt thì nó sẽ làm cho chúng ta trong sự tu tập nhẹ nhàng đi rất là nhiều, dễ dàng đi rất là nhiều, nhanh chóng đi rất là nhiều trong việc đạt đến cứu cánh giải thoát. Còn nếu chúng ta không có kỷ luật tương đối căn bản như vậy chúng ta sẽ bị thiệt thòi rất lớn là trong lúc đáng lẽ phải ra quân và phải hướng đến mục tiêu và lúc đó thì tự mình vẫn còn lúng túng rất nhiều trong việc an quân, lúng túng rất nhiều trong việc tổ chức chặc chẽ đội quân của mình.

Đời sống của chúng ta cũng vậy một việc nhỏ khoan nói đến thiền định, chúng tôi nhớ ở trong một bài kinh có đề cập đến tâm tư của một người bố thí và người thọ thí, nếu người bố thí có giới thì tâm tư họ khác hơn sự bố thí của một người không có giới. Về điều này nói rất rõ giới tạo ra phẩm chất của nội tâm và dựa trên phẩm chất này thiền định được phát triển. Về điều này được mô tả rõ ràng trong thất tịnh và trong Bát Chánh Đạo, thậm chí những vị Chư Thiên sanh lên do phước bố thí hào quang cũng không sáng bằng những vị Chư Thiên sanh lên do có phước trì giới, và đặc biệt tâm tư của những vị Chư Thiên có giới ổn cố hơn những vị Chư Thiên sanh lên do quả phước của bố thí. Chúng ta được nhìn thấy những ví dụ như vậy ở trong kinh và không có gì ngạc nhiên về những thí dụ này.

Thì đối với Đức Phật khi Ngài nhìn những vị tân Tỳ Kheo xuất gia và những vị này trước kia là những lâu la trong đó có một vị đảng trưởng của bọn cướp bây giờ họ trở thành vị Tỳ Kheo, Đức Phật đã sách tấn họ bằng một lời dạy rất đơn giản ở trong bài kệ này Ngài cho biết họ có thể sống một trăm năm ở trong cuộc đời này sống rất thọ rất lâu và sống rất hiển hách bằng những chiến công oanh liệt của họ mà oanh liệt ở đây là cướp của giết người, đời sồng đó họ chỉ chạy theo những nguyên tắc mà những nguyên tắc này vốn hoàn toàn không có giá trị gì liên quan đến nội tại bởi vì nó không có xây dựng cơ sở cho sự định tâm và cho tỉnh giác tức là cho thiền định được. Bây giờ Ngài đem chuyện đó so sánh chỉ một ngày sống trọn vẹn ở trong giới và nó có cơ sở để làm cho thiền định thì Ngài cho rằng hai điều đó rất khác biệt cho dù sự khác biệt đó người ta đánh giá về phương diện luật pháp bên ngoài phương diện đạo đức ra sao đi nữa, thì đối với một người tu ở đây có một điểm rõ ràng là cuộc sống như thế không có phí phạm, dùng thì giờ đúng chỗ, đặt tâm trí đúng chỗ, và Đức Phật Ngài cho rằng giá trị của nó là một giá trị không những vượt bậc mà giá trị là giá trị kia không có một chút gì có thể so sánh được với giá trị này hết.

Về điểm này có lẽ chúng ta phải nói thêm đến một ý nghĩa khác là, mặt dù giới không phải cứu cánh, giới không phải mục tiêu sau cùng nhưng giới là bước đầu và có ai bắt đầu cuộc hành trình mà không cần đến giai đoạn đầu, cần đến bước đầu, và bước đầu đó không những cho chúng ta có được nghị lực mà giới thiệu cho chúng ta rất nhiều về thế giới nội tại, có thể nói rằng với một người giữ giới họ làm quen rất nhiều về những hành hoạt của thân của tâm và họ sẽ tìm thấy được một cách rất chân thành cái gì là cái mạnh và cái gì là cái yếu của họ. Không may là quan niệm về giới ngày hôm nay người ta đã phát triển đôi khi nó trở thành một thứ điều lệ của thanh qui tức là của một tu viện hay tổ chức nào đó là một thứ điều lệ người ta nghĩ về giới nó là sự bảo chứng cho một truyền thống, ví dụ như một người tu theo tông này phái kia phải ăn như vậy phải mặc như vậy.

Chúng tôi nhớ có một lần sang Tích Lan và chúng tôi đi theo một vị Trưởng Lão, vị Trưởng Lão này tu theo phái Siamnikaya tức là một truyền thống Phật Giáo cũng của Nguyên Thủy nhưng do Chư Tăng Thái Lan truyền sang và trên đường đi chúng tôi có cầm theo một chiếc lá,chiếc lá này đặc biệt của Chư Tăng một phái khác họ dùng để che nắng, và vị Tăng này không có vui nói với chúng tôi hãy bỏ chiếc lá đó đi tại vì nếu chúng tôi cầm chiếc lá đó người ta sẽ nghĩ chúng tôi đang đi với một vị Tăng không phải phái Siamnikaya .

Thì chúng tôi được biết rất nhiều những hình thức ở bên ngoài mà những hình thức này có đôi lúc người ta lầm tưởng nó là giới và kể cả có một bộ phận lớn của Phật Giáo khi đề cập đến giới thì chỉ là một ước lệ qui định thế nào là tông này thế nào là phái kia. Nhưng thực sự cốt tủy của giới Đức Phật Ngài dạy ở tại đây giới trước nhất là mang lại cho chúng ta cái nghị lực, nghị lực thấy rằng mình có khả năng tự chủ và thứ hai là nó mở rộng cánh cửa để chúng ta đi vào một thế giới và trong thế giới này chúng ta phải tự mình hiểu được mình phải phấn đấu lại chính thân và tâm chính những thói quen chính những tập khí của mình như thế nào.

Có thể nói tôn giáo thường được người ta đón nhận một cách rất nhanh chóng trong đời sống và đặc biệt là qua niềm tin và dựa trên niềm tin đó chúng ta lại đưa ra một cái nhìn hết sức chủ quan đó là giới luật của Đạo Phật đó là những điều Đức Phật Ngài bắt chúng ta phải tuân giữ tại vì chúng ta là Phật tử là con Ngài, điều nào lên làm điều nào không nên lên làm. Nói như vậy chúng ta chưa thấy cái dụng của giới tức là chưa thấy sự ứng dụng khả dĩ mang lại một điều kiện hết sức quan trọng, như chúng ta nói đến giới học ở trong Tam Học hay nói đến Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng ở trong Bát Chánh Đạo, hay Giới Tịnh ở trong Thất Tịnh. Thì về điểm này cũng nhắc rằng dĩ nhiên giới không phải là cứu cánh nhưng mà giới là bước đầu. Và Ngài Punna trả lời Tôn Giả Xá Lợi Phất: "Mặc dù cứu cánh phạm hạnh không phải là giới nhưng nó là trạm xe đầu tiên", thì phải đi đến trạm xe đó đến trạm xe thứ hai, rồi đến trạm xe thứ hai chúng ta phải đi đến trạm xe thứ ba. Nhưng không ai có thể đi một cuộc hành trình mà không qua giai đoạn đầu không qua trạm đầu tiên hết.

Dựa trên câu chuyện duyên sự của bài kệ ngôn 110 và cũng dựa trên ý lý của bài kinh thì từ bài kinh này trở đi chúng ta sẽ tìm thấy rất nhiều một số sự so sánh của Đức Phật. Và khi Đức Phật làm một cuộc so sánh như vậy thì dĩ nhiên là Ngài trực tiếp để khai thị cho một số người đang lắng nghe Ngài, những người này cần có một dứt khoát là cái gì là cái giá trị thật sự và cái gì không có giá trị thật sự. Thái độ dứt khoát trong sự lựa chọn này nó là một bài học lớn chẳng những nó là một bài học lớn mà nó còn giúp cho chúng ta tiết kiệm được rất nhiều năng lực của mình và biết đặt năng lực của mình ở chỗ nào đúng chỗ.

Đọc những chuyện tích xưa và những câu Phật ngôn tương tự Đức Phật Ngài đã gói ghém ở trong những câu nói đó vào một nhân duyên đúng chỗ, đúng người, đúng lúc, đúng việc khiến cho những người này họ có thể đón nhận những lòi dạy tuy rất ngắn ở trong 4 câu kệ như vậy nhưng nó đã trở thành một kết luận của họ về cái gì thật sự có giá trị một đời sống trước đây và đời sống bây giờ.

Thậm chí có khi Đức Phật Ngài lại nói một cách rất tỉ mỉ Ngài nói: "dù một khảy móng tay ở trong một khoảnh khắc rất nhỏ một người phát tâm từ đối với tất cả chúng sanh trong cõi đời này thì Như Lai cũng gọi đó là có công đức vô lượng lợi lạc".

Thì những cái thước đo như vậy, những lời dạy của Đức Phật như vậy không phải đơn giản, không phải dể cho chúng ta đón nhận vào lòng bởi vì đây không phải là câu ca ngợi bình thường mà điều này nói lên một vai trò một vị thế của một pháp môn và trong pháp môn đó nó là một khởi đầu, người nào mà khởi đầu tốt thì phải nói rằng người đó đã đi được ít nhất một phần ba đoạn đường, sự khởi đầu rất quan trọng, cổ nhân có nói "vạn sự khởi đầu nan". Nhưng có thể nói hơn thế nữa, không phải chỉ có sự khởi đầu nghiêm túc là cần thiết mà nó còn xây dựng cho chúng ta biết được hướng đi của chúng ta về đâu.

Chúng tôi nhớ có một lần trên một chiếc tàu ra ngoài biển khơi ngồi bên cạnh người tài công và nhìn vào la bàn người này nói với chúng tôi chỉ một hai độ lệch hướng thôi mà không cẩn thận thì cuộc hành trình nó đã hoàn toàn khác. Cái bước đầu là những gì người ta xem rất tầm thường nhưng bước đầu đó lại quyết định chung cuộc rất nhiều, nó quyết định phần đường còn lại rất nhiều. Có nhiều người xem thời thơ ấu của trẻ con không quan trọng nhưng chính sự giáo dục của cha mẹ dành cho con vào thời niên thiếu vào thời kỳ còn thơ ảnh hưởng lớn về sau này.

Cũng tương tự như vậy nếu một người có sự bắt đầu nghiêm túc, có sáng suốt về cơ sở về giới của mình, cảm thấy hoan hỉ trong giới, cảm thấy lợi lạc ở trong giới, thì người đó họ sẽ có những thành tựu rất lớn mạnh về sau này về thiền định. Về yếu tố này giải thích tại sao trong sớ giải nói trong đời này có những người hành nan đắc nan, có những người hành nan đắc dị, có những người hành dị đắc dị, có những người hành dị đắc nan, nghĩa là có những người tu khó mà chứng khó, có người tu khó mà chứng dễ, có người tu dễ mà chứng khó, có người tu dễ mà chứng dễ, là bởi vì sự bắt đầu của họ có cơ sở hay không./.

No comments:

Post a Comment