Thursday, 14 January 2016

Kệ Ngôn 101 - Lời hay bất tất dông dài

Psychotheraphy, Meditation
Kệ Ngôn 101 

Lời hay bất tất dông dài

Thap Nhi Nhan DuyenGiảng Sư: TT Giác Đẳng 

Thánh thi tụng nghìn câu
Nghe nhiều lòng vẫn thế
Sao sánh bằng dòng kệ
Hiều rồi được thăng hoa





.
Chánh văn kệ ngôn pháp cú do Thượng Tọa Giác Đẳng dịch từ Pali
Sahassamapi ce gaathaa anatthapadasa.mhitaa
Eka.m gaathaapada.m seyyo ya.m sutvaa upasammati.

Minh Hạnh chuyển biên:

TT Giác Đẳng: Chúng ta có ba kệ ngôn ở trong phẩm Ngàn: kệ ngôn 100, 101 và 102. Lời của ba kệ ngôn này giống nhau nhưng chỉ có một đoạn khác nhau chúng ta lưu ý ở đây đó là; bài kệ 100 dùng chữ "vaacaa" nghĩa là lời nói. Lời nói ở đây chỉ chung cho bất cứ lời nói gì, như trong câu chuyện người đao phủ thủ chúng ta được nghe TT Trí Siêu giảng về Ngài Xá Lợi Phất khi Ngài gặp một ông cụ trước kia làm nghề đao phủ và ông không cách nào lắng tâm nghe pháp được, trong cách hướng dẫn trong lời nói ngôn từ của Ngài khiến cho ông có thể lãnh ngộ được. Hôm nay thì chúng ta lại nghe một bài kệ 101, bài kệ này không dùng chữ "vaacaa" là lời nói mà dùng chữ "gaathaa" nghĩa là kệ tụng hay là một bài kệ, ở đây chúng tôi dịch là "thánh thi" là bởi vì gaathaa là một thể rất là quen thuộc trong kinh điển Vệ Đà của Ấn Độ. Nhiều tác phẩm dài như là Bhagavad Gita - Chí Tôn Ca hay là Upanisad - Áo Nghĩa Thư, phần lớn những dạng kinh điển được viết trong giáo điển của Bàlamôn hay của Ấn Giáo thì được viết dưới dạng "gaathaa" do đó chúng ta có thể dịch là thánh thi hay là kệ tụng. Những bài kệ tụng thánh thi này thường là một mẫu kệ tụng rất quen thuộc đối với những tu sĩ Ấn Giáo, dĩ nhiên là chúng ta muốn nói đến Bàlamon giáo thời xưa cũng vậy. Ngày mai chúng ta sẽ gặp một chữ khác trong một câu kệ 102 là chữ "bhàse," thật ra bhàsati cũng có nghĩa là lời nói nhưng lời nói có lập luận căn bản, chữ "bhàse" khác hơn chữ "gaathaa" chúng ta có thể dịch là luận ngữ, hay là một phương ngôn tức là một cách nói nào mà lập ý thì ở trong một cái bối cảnh khác một mạch văn khác mà chúng ta có thể được nghe qua câu chuyện của Ngài Xá Lợi Phất trong duyên sự của kệ 102.

Kệ ngôn 101 đề cập đến câu chuyện của Bàhiya là một người xuất gia vì sự tình cờ, trong sự tình cờ đó lại cảm nhận rằng mình cũng có đạo phong kiểu cách hơn người, bởi lý do là thuyền tắp vào một khu làng rồi vì mất hết quần áo rồi vị này tự trầm những vỏ cây làm thành quần áo. Và người Ấn Độ thời bấy giờ thì họ rất sùng bái những vị đạo sĩ những vị samôn có cách sống hơi khác thường. Giống như ở miền Nam nước Việt có những người chuyên môn ăn ớt gọi là đạo ớt, hay chuyên môn ăn chuốt thì gọi là đạo chuốt, hay có một đặc hạnh gì thì họ gọi là ông đạo. Thì lúc bấy giờ người ta thấy Bàhiya mặc vỏ cây đi vào làng thì họ nghĩ đó là một vị chân tu một vị đạo sĩ đang tu trong hạnh gì đặc biệt. Mặc dù trở thành một vị đạo sĩ do hoàn cảnh đưa đẩy nhưng rốt cuộc Bàhiya vẫn là một người cảm nhận được ở trong lòng mình có một cái gì mời gọi để trở thành một người dấn thân vào cuộc sống tu tập. Có một chút đạo tâm và với sự sùng kính của những người chung quanh thì Bhàhiya dần dà cảm thấy đời sống của mình bỏ đi được nhiều thứ trong lòng cũng thanh thản khác hơn ngày xưa nhiều và thậm chí Bhàhiya nghĩ mình là một vị trọn lành, trọn lành tức là một vị không có phiền não nữa.

Cũng nên nói thêm rằng chữ Arahan vào thời xưa được dùng cho vị đã dứt sạch phiền não, không riêng ở trong đạo Phật mới dùng chữ Arahan mà ngay cả những vị đạo sĩ bên ngoài cũng đề cập đến chữ đó nghĩa là vị Trọn Lành hay vị Ứng Cúng. Rồi có một vị thiên vốn là quyến thuộc ở kiếp trước của Bhàhiya thấy vậy mách nước cho Bhàhiya rằng thật ra ông không phải là một vị Ứng Cúng Trọn Lành mà vị Ứng Cúng Trọn Lành đã ra đời tại miền trung Ấn này và Ngài đã ngự ở Xá Vệ. Nghe vậy thì Bhàhiya lên đường đến thành Xá Vệ để tìm Đức Phật. Cuộc hội ngộ của ông với Đức Phật là một cuộc hội ngộ tình cờ như là cuộc vào tu của ông khi bắt đầu vậy. Ông hỏi thăm người này người khác họ chỉ ông về Đức Phật là ai và ở đâu và ông đã gặp Đức Phật trong lúc Ngài đang đi khất thực.

Thông thường thì những Đức Thế Tôn khi các Ngài làm việc gì hay là dạy pháp thì Ngài dạy đúng thời, đúng lúc, đúng chỗ, chứ không phải là bất cứ lúc nào. Trong trường hợp Đức Thế Tôn Ngài đang đi khất thực với bình bát trên tay thì rất ít khi Ngài đứng lại để giảng pháp vào lúc đó. Thông thường hình ảnh chúng ta được nghe ở trong kinh, nếu một người như là Ngài Xá Lợi Phất lúc còn cư sĩ gặp Ngài A Xà Chí đang đi khất thực mà muốn đi theo nghe pháp thì sẽ đi theo Ngài cho đến khi Ngài đi xong chuyến đường khất thực trở về độ cơm xong thì mới bắt đầu hỏi đạo. Nhưng trong lòng Bhàhiya có cái gì nôn nóng, nôn nóng bởi vì nhiệt, nôn nóng bởi vì từ xưa đến giờ ông chưa bao giờ được cảm nhận một cái gì thật sự là một vị Thánh nhân giải thoát, nhưng hình ảnh của Đức Phật làm cho ông có niềm tin ngay là đây chính là bậc Vô Thượng Giải Thoát và tâm tư của ông bấy giờ trở lên khát ngưỡng được học đạo, được đón nhận sự chỉ dẫn và ông đã đến khẩn khoản để xin Đức Phật Ngài giảng pháp cho mình. Đức Phật đã cho ông biết rằng đó là lúc phi thời tại vì trong lúc này không phải là lúc để một vị Phật giảng pháp như vậy. Thì ông rất là khẩn khỏan, một sự khẩn khoản như một người khát nước mà bây giờ không uống nước được thì phải chết, thì thưa qúi vị Đức Phật Ngài đứng giữa đường Ngài đã dạy ông một bài kệ ngắn, bài kệ này là một bài kệ hết sức là quan trọng, ở trong bài kệ đó Đức Phật Ngài đã dạy rằng:

"khi nào thấy thì biết là thấy, khi nào nghe thì biết là nghe, khi nào suy nghĩ thì biết là suy nghĩ."

Và ý nghĩa của bài kệ này có thể nói rằng là một hướng dẫn rất ngắn, rất đại lượt về pháp hành thiền quán tức là một thái độ giác tỉnh đối với các giác quan của mình, và đặc biệt là đối với tâm ý của mình. Rồi Đức Phật Ngài dạy tiếp cho ông hiểu về cái ý lý thế nào là sự giải thoát. Ngài sau khi hướng dẫn một ít về thiền quán Ngài dạy cho ông thế nào là sự giải thoát. Bhàhiya sau khi nghe bài pháp của Đức Phật, nghe giống như nước như mật rót vào lòng, giống như một người khát nước lâu bây giờ được nước uống, nghe tới đâu thì nó thấm vào tới đó.

Trường hợp này chúng tôi nhớ khi ở gần Ngài Hoà Thượng ở chùa, có khi Ngài nói rằng có những thứ thức ăn thức uống mà mình ăn mình uống mình thấy như nó rót vào trong hố sâu, có những thức ăn thức uống mà mình nghe giống như nó đang thấm thía. Thì nghe pháp cũng vậy thưa qúi vị, có nhiều khi chúng ta nghe một điều gì đó nghe chỉ là một sự chấp chứa thêm tri kiến, nhưng có những lúc chúng ta nghe pháp nghe như thấm vào trong xương trong tủy của mình, ngay trong lúc đó thì chúng ta biết rằng chúng ta được tắm gội thật sự, được gội nhuần bởi ý nghĩa chân thực của pháp. Thì Bhàhiya cũng vậy trong trường hợp này, khi nghe Đức Phật giảng thì ông thành tựu đạo quả vô sanh, và theo trong sớ giải thì nói rằng chẳng những thành tựu đạo quả mà ông còn được chứng đắc các thần thông, một vị như vậy gọi là chứng đắc lục thông kể cả lậu tận thông. Sau đó không lâu thì vị này bị một tai nạn viên tịch chỉ một thời gian ngắn sau khi nghe Đức Phật Ngài thuyết pháp thành tựu đạo quả. Các vị tỳ kheo có thắc mắc về cảnh giới đến đi của vị đạo sĩ Bhàhiya này, vì các vị tỳ kheo đi khất thực theo Đức Phật, Đức Phật Ngài cho biết về hành xứ của vị này và về sự chứng đắc vô dư Niết-bàn của vị này. Một số các vị tỳ kheo rất kinh ngạc vì một người mà có thể thành tựu đạo quả trong thời gian ngắn như vậy, lúc đó Ngài đã dạy kệ ngôn trên. Kệ ngôn mà có thể là một gợi ý rất là quan trọng có thể là một tiền đề mà chúng ta thảo luận về sự tu tập và cách hành trì.

Thánh thi tụng nghìn câu.
Nghe nhiều lòng vẫn thế.
So sánh bằng giòng kệ.
Hiểu rồi được thăng hoa.

Có lẽ không riêng truyền thống Phật giáo Nam Tông, Bắc Tông hay Mật Tông mà hầu như có một số lớn trong chúng ta luôn luôn bị ám ảnh bởi một điều là trên con đường giác ngộ giải thoát chúng ta phải học rất nhiều có thể nói thiên kinh vạn điển hay cả một hệ thống giáo lý to lớn. Về điểm này nó cũng là một trong những lý do mà truyền thống trong lịch sử đạo Phật đã có một giòng thiền tách rời ra khỏi truyền thống cố hữu này, và chúng ta được biết đó là thiền tông của Trung Hoa hay là thiền Zen của Nhật Bản, những giòng thiền này họ đi đến một chỗ cực đoan hơn nữa là bất lập văn tự giáo ngoại biệt truyền, cho dù bất lập văn tự nhưng vẫn có những tác phẩm đồ sộ giống như Bích Nham Lục chẳng hạn. Nhưng một thái độ của thiền tông thường đề cập đến là một thái độ phải nằm ngoài những số lượng kinh sách to lớn như vậy. Đó là một đề tài chúng ta sẽ bàn ở chỗ khác.

Nhưng ở đây nói lên một điều là kho tàng chính thức về y học của con người thì có thể nói rất rộng lớn, nhưng để trị đúng bịnh của mình thường khi chúng ta chỉ cần một số thuốc nào đó, tất nhiên phải có những người có rất nhiều kiến thức về y học như bác sĩ hay dược sĩ để có thể kê toa chuẩn bịnh cho thuốc một cách chính xác. Nhưng khi với một người bịnh thì vị thầy thuốc có thể chỉ một liều thuốc một toa thuốc uống vài ba thang thì hết bịnh. Bên Thái Lan tại trường thiền dạy một loại thiền của Wat Panan Choeng thì họ cũng cố gắng để làm một giáo trình, chúng ta tạm gọi là giáo trình tại vì họ làm một thứ lớp về pháp tu niệm pháp thân như thế nào, dĩ nhiên chúng tôi không muốn đi sâu vào để bàn về pháp tu của họ, nhưng mà nói chung đó là một ví dụ rất tiêu biểu là có một số nỗ lực nhắm vào việc làm sao tu tập và con đường hành trình có lớp lang. Nhưng con đường tinh thần là một con đường rất là lạ, không phải một người được tốt nghiệp trong trường Văn Khoa với một kiến thức đồ sộ về kim văn cổ văn mà người đó có thể viết được những bài thơ ra hồn, và chúng ta biết rằng có những vị mà thơ và nhạc chỉ là được biết từ thời còn rất nhỏ nhưng họ có thể trong thi tứ đạt đến trình độ rất cao, là một vị thi sĩ với một vị giáo sư dạy Việt văn có thể hai cái nó không thể nào lấy cái này mà lượng định cái kia được. Thì tương tự như vậy có một số người học, có một số người hiểu, và có một số người thành tựu được cái mà được Đức Phật truyền dạy. Và không nhất thiết là người ta phải học phải hiểu, người ta học thật nhiều phải hiểu thật rộng rồi mới chứng đắc được cái to lớn, không có nghĩa là như vậy. Nên điều đó nói lên một ý nghĩa rất quan trọng về con đường tinh thần. Và thậm chí người ta còn nói đến một sự đả phá nặng nề vào kho tàng kinh điển truyền thống, chúng tôi tin rằng nó cũng là một thứ cực đoan khác.

Hồi nãy chúng tôi có thưa là uống thuốc chỉ có thể trong một hai thang thuốc là hết bịnh, nhưng muốn có được uống thuốc mà một hai thang hết bịnh thì chúng ta cần được sự chuẩn bịnh kê toa cho thuốc của những vị bác sĩ dượt sĩ và những người đó phải có trình độ rất khá. Cái khéo của chúng ta là làm thế nào đón nhận cái vừa phải, nếu chúng ta tin rằng chúng ta học hết bộ kinh này sang bộ kinh khác, hết tạng này sang tạng khác mà chúng ta có thể thật sự là người đa văn quảng kiến, và từ đó chúng ta mới đạt đạo chứng quả được thì nó là một cực đoan, bởi vì chúng ta quá tin vào cái kho tàng đồ sộ của kiến thức của pháp học. Nhưng nếu chúng ta phủ nhận pháp học mà chỉ đi vào pháp hành thì điều đó đôi lúc giống như mò kim đáy biển hay là đi đường chúng ta không cần bản đồ mà chúng ta cũng đi. Tuy nhiên cũng phải nói một điều là cái lẽ sống của tinh thần rất lạ lùng, điều quan trọng nhất của một người mang lẽ sống tinh thần là một thái độ rất cởi mở, một thái độ có thể đón nhận được.

Thưa qúi vị, chúng ta nghe vô số câu chuyện, ở trong đó có câu chuyện Trạng Quỳnh đãi Chúa Trịnh ăn một bữa cơm rất thanh đạm nhưng rất ngon, bởi vì khi đói thì một chút rau một chút cà một chút nước chấm cũng có thể là một bữa ăn ngon được, không nhất thiết phải là cao lương mỹ vị thức ăn cao sang ở chốn cung đình mới có thể làm một người đang đói khổ mới có thể sung sướng khi được bữa ăn. Chánh pháp mà được đem ứng dụng trong đời sống đòi hỏi một khả năng uyển chuyển và linh động rất nhiều. Chúng ta có thể nghe một điều gì đó rất thấm thía, thấm thía có đôi lúc không phải là vì lý luận dông dài hay lời nói cao xa, mà lúc đó chánh pháp nói đúng thời, đúng chỗ, đúng chuyện, và điều đó có khả năng chuyển hoá toàn bộ tâm thức của chúng ta thì điều đó mới có giá trị. Nên chi càng lúc về sau này chúng ta lại càng đối diện với rất nhiều nỗ lực để người ta trình bày đạo, người ta nói đạo lý qua những ngôn ngữ, qua những kỹ thuật, qua những phương tiện hết sức tinh xảo. Điều đó trên phương diện quảng cáo thì có thể được nhưng trên phương diện đạo thì đôi lúc không phải như vậy, có những lời nói tuy rất mộc mạc chân thành nhưng nói đúng chỗ, đúng lúc, và đúng người, thì nó có thể mở cho chúng ta một khung trời quang đãng, có thể đưa chúng ta đến bước ngoặc mới của đời sống.

Bài kệ này cũng giống như bài kệ số 100 mà chúng ta đã nghe nói lên một sự khẳng định của Đức Phật. Các vị tỳ kheo trong phàm tâm của mình thì có những thắc mắc rất tầm thường, không phải thắc mắc ở đây mà đó là một thái độ kinh ngạc trước một người mà có thể đón nhận chánh pháp một cách ít như vậy. Vào tiền bán thế kỷ 20 tại Thái Lan có một vị Thiền Sư rất lỗi lạc Ngài Ajahn Mun, Ngài là một vị Thiền Sư mà có thể được nói rằng đa số các bậc Thầy về trì hạnh đầu đà các bậc Thầy về thiền định của Thái Lan bây giờ hoặc xa hoặc gần là đệ tử của Ngài. Ngài tu theo phái Dhammayutti, và trong số đệ tử của Ngài thì chỉ có Ngài Ajahn Cha là theo Maha Nikaya Ngài chỉ học có ba ngày thôi, có một lần một đệ tử khác hỏi Ngài Ajahn Cha sao mà Ngài ở có ba ngày mà Ngài học được nhiều của Ngài Ajahn Mun như vậy, thì Ngài nói rằng: "một con người có mắt mà khi mặt trời mọc lên thì người đó có thể thấy được rất nhiều việc, quan trọng là mình có mắt hay không."

Thì thưa qúi vị cuộc sống bây giờ có những thứ rất thiếu nhưng có những thứ rất thừa. Có những thứ rất thiếu là bởi vì cuộc sống càng lúc càng lôi kéo chúng ta về một hướng với muôn ngàn sự chi phối và chúng ta thiếu hẳn một mặt nào đó. Ví dụ như tại học đường Hoa Kỳ ngày hôm nay thiếu hẳn môn đức dục, thiếu hẳn một ngành học về cuộc sống của con người nên sống như thế nào ở trong việc tu tâm hay xử thế hoàn toàn không có ở trong học của Hoa Kỳ. Nhưng mà có những cái rất thừa là bởi vì chúng ta đi vào bất cứ lãnh vực gì thì sách vở quá nhiều, chúng ta đi vào bất cứ ngành gì thì có vô số thứ để chúng ta học, hầu như là khi cần thì chúng ta có cả một kho tàng đồ sộ sách vở. Có đôi lúc người ta bắt buộc chúng ta khi muốn lái xe thì mình phải biết cách sửa máy, mình phải biết máy dầu cặn và máy xăng khác nhau thế nào, phải biết hộp số như thế nào, rồi phải biết hệ thống điện ở trong xe như thế nào. Những thứ đó thật sự nó không cần thiết. Một người lái xe giỏi có thể họ biết rất ít về máy móc, chỉ biết làm thế nào để coi chừng nước, coi chừng dầu, coi chừng nhớt, nhưng mà bây giờ những xe đòi hỏi như vậy. Đôi lúc chúng ta có đòi hỏi rất lớn với đời sống và thật sự hoang phí thì giờ với điều đó. Bhàhiya có hai điều rất may mắn, một là tự thân của vị này là một người có túc duyên đã chín mùi, nghĩa là balamật đã đủ, thứ hai nữa là gặp Đức Phật là bậc chân sư là một vị có thể cho thấy được cái gì cần thấy mà trong một giây phút thảng thốt ông có thể tìm thấy ánh sáng bừng khởi trong lòng, bởi vì lúc đó Bhàhiya có thể đến với đạo một cách trực tiếp mà không phải dông dài.

Thưa qúi vị cái chứng bịnh con mọt sách là chứng bịnh của hầu hết chúng ta ngày hôm nay, chúng ta chỉ vùi đầu trong kinh điển. Chúng tôi nhớ thi sĩ Triều Tâm Ảnh viết: "Kinh sách đốt không tìm ra Xá Lợi, chân ngữ xưa vùi dưới lớp tro tàn, ngón tay hồng nguyên trinh còn vị dọc, đầy hai bờ tri kiến dựng trơ gan." Đúng là kinh sách đốt không tìm ra Xá Lợi mà chân ngữ xưa vùi dưới lớp tro tàn, chúng ta ra đi lên đường với một gánh nặng rất cồng kềnh mà mình nghĩ rằng ở đó chúng ta có thể tìm được một giá trị chân thật nhưng chân thật đó không phải nhiều như vậy. Nó giống như trong đời sống hôn nhân gia đình có những người tìm được hạnh phúc gia đình bởi vì họ có thể tìm thấy được một sự cảm nhận rất chân thành, một số lớn khác thì họ xây dựng giá trị của gia đình ở trên một gia tài sự nghiệp và bao nhiêu điều kiện. Bản thân của chúng ta khi làm công việc gì thì chúng ta lại bỏ rất nhiều công sức để làm nhưng chúng ta lại không nắm được cái yếu lý để cuối cùng chúng ta rất mệt mỏi, làm rất nhiều nhưng cái mà chân thật cái mà chúng ta có thể cảm nhận được thì cũng không có bao nhiêu hết.

Bây giờ trở lại với kho tàng của pháp bảo thì phải nhận rằng không có một tôn giáo nào mà có một lượng kinh điển đồ sộ như đạo Phật và chẳng những lượng kinh điển đồ sộ mà có cả một hệ thống đồ sộ. Đức Phật Ngài hoằng pháp 45 năm và trong đó Ngài có rất nhiều đệ tử như Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, Ngài Anan.v.v... các vị đều là những vị đệ tử lỗi lạc. Và suốt trong giòng lịch sử của đạo Phật thì những tư tưởng được tìm thấy trong kinh điển không phải là một tư tưởng đứng lại mà đó là một tư tưởng rất sống động, cái chất sống đó đã khai triển ra bao nhiêu nền văn học giáo hệ về sau này cái nào cũng đồ sộ cái nào cũng to lớn. Chúng ta có thể hãnh diện và rất là hoan hỷ thấy rằng mình đã thừa hưởng một gia tài tâm linh lớn lao như vậy. Có thể nói rằng nếu một người bằng thiện tâm thiện chí thật sự thì cái gia tài giáo pháp của Đức Phật để lại có thể nói hưởng cả đời không hết.

Nhưng mà rồi bên cạnh đó chúng ta không thể không nhắc lại một điều mà Đức Phật nhắc ở tại đây trong bài kệ trước số 100, bài kệ này số 101, và cả bài kệ kế số 102, ở trong những bài kệ này chúng ta lại nghe nói đến về một cái thước đo, một cái giá trị mà giá trị đó rất đốn ngộ, là bởi vì nghe dường như Đức Phật Ngài cho chúng ta biết rằng; nhiều lời thiên kinh vạn điển đôi lúc nó không bằng một lời. Nhưng chúng ta phải hiểu một cách rất rõ ràng tường tận tôn ý của Đức Phật tại đây, Ngài chỉ cho chúng ta biết rằng có possibility là một chuyện có thể xảy ra được và chuyện đó là chuyện hoàn toàn có thật vậy, nghĩa là một lời nói một kệ ngôn một câu luận ngữ nói đúng thời, đúng chỗ, đúng lúc, đúng căn tánh, thì điều đó có thể mở rộng cho cả một thế giới giải thoát mênh mông mà chúng ta không ngờ được.

Có một lần Đức Phật lại nói đến một hình ảnh rất là thôn giã, một hình ảnh mà chúng ta không có nghĩ rằng Đức Phật có thể dùng hình ảnh đó, Ngài ví dụ trí tuệ giống như hạt thóc hay là hạt trấu, nếu đặt nó đúng chỗ, nếu chúng ta cầm đúng chỗ nó có thể thủng da chúng ta, vị Phật tử nào mà chưa có niềm sống miền quê biết rằng hạt lúc hay hạt thóc nó rất nhỏ rất mảnh, nhưng nếu chúng ta không khéo thì nó có thể đâm vào tay chúng ta chảy máu. Thì Ngài dạy trí tuệ mà biết dùng đúng chỗ thì nó chọc thủng được vô minh. Một tờ giấy, chúng tôi không biết rằng qúi Phật tử có khi nào mà bị giấy cắt tay không, chúng tôi thỉnh thoảng bị tờ giấy cắt tay, tờ giấy rất là mỏng và không ai nghĩ rằng tờ giấy có đủ bén để cắt tay chúng ta, nhưng nếu nó đặt đúng chỗ và ngón tay của chúng ta mà lướt ngang vào đúng cái thế thì cũng cắt ngón tay của mình. Và những possibility - chuyện có thể xảy ra đối với đạo Phật là một chuyện hoàn toàn khả hữu, nó là một việc mà chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều không phải một thí dụ Bhàhiya mà có vô số trường hợp được tìm thấy trong kinh điển, chỉ một sự khai tâm rất là nhỏ mà điều đó có thể là một sự chuyển vận hết sức lớn không phải của một đời người mà của một giòng luân hồi./.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

No comments:

Post a Comment